Hôm nay,  

Viễn Du

25/09/200500:00:00(Xem: 150387)
- Người viết: NGUYỄN LÊ
Bài số 835-1425-261-vb2092605

Tác giả Nguyễn Lê là cư dân Phila, PA., chủ một nhà hàng Việt trong thành phố. Ông đã góp nhiều bài viết, thường ngắn gọn, đơn giản và đã được trao tặng giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2005. Lần này bài mới của ông đề cập tới một sinh hoạt thường thấy trong đời sống của người Việt hải ngoại: viễn du đây đó, từ Á sang Âu.

*

Trước năm 1975 tại Việt Nam, viễn du là những chuyện hiếm hoi đối với người Việt, chỉ một số ít những người Việt giàu có mới nói đến chuyện đi du lịch.
Ngày nay sau 30 năm bỏ nước ra đi, người Việt trên khắp các tiểu bang cũng như khắp nơi thên thế giới ăn nên làm ra. Những năm đầu trên xứ người, đầu tắt mặt tối, đi cày 2, 3 jobs, nay đã dư dả tìm những phương tiện xả hơi, đền bù lại những thời gian vất vả làm việc.
Du lịch đối với người Việt trên đất Mỹ là một việc làm khích lệ, tưởng thưởng cho những thời gian miệt mài trong công việc và chuẩn bị bồi bổ cho tâm trí để cho sau khi đi du lịch về có tinh thần hăng say muốn tiếp tục làm việc nữa.
Những người làm việc trong các công ty lớn nhỏ tại Mỹ sau mỗi năm làm việc được nghỉ từ 1, 2 tuần lễ tới một tháng để có thời gian nghỉ ngơi, lấy lại sức khoẻ. Đa số dùng thời gian nghỉ xả hơi này đi du lịch, ra biển, lên núi, đi cruise v.v...
Mỗi năm người Pháp bỏ kinh thành hoa lệ Ba Lê đi nghỉ mát tại bãi biển hoặc lên núi xả hơi trong vòng một tháng trời. Ai du lịch thăm kinh thành ánh sáng vào tháng hè thấy thành phố sinh hoạt tẻ nhạt, rời rạc.
Các văn phòng, các hãng du lịch của người Việt được dịp nở rộ, đáp ứng nhu cầu của đồng hương. Chúng tôi không phải người nước Phú Lăng Sa cũng mỗi năm bỏ ra một tháng đi nghỉ hè, liên tục từ năm 1977 tới nay đã được 28 năm liên tiếp.
Nơi chúng tôi du lịch nhiều nhất là Hong Kong, Thái Lan, Singapore, Mã Lai, nhật Bản .
Cậu con trai của tôi hồi 7 tuổi đã thuộc đường trên các phố ở Hông Kông. Từ khách sạn cậu dẫn bố mẹ tới các nhà hàng mà bố mẹ thường lui tới.
Sở dĩ chúng tôi biết nhiều Hồng Kông, Bangkok là vì mỗi lần về thăm Việt Nam, các máy bay đều phải đáp xuống mấy phi trường ở các thành phố này rồi mới bay chuyển tiếp tới phi trường Tân Sơn Nhất. Liên tiếp 4, 5 năm liền chúng tôi phải về Việt Nam vì ông nhạc của chúng tôi bị bệnh.
Mỗi lần tới Bangkok, Thái Lan chúng tôi đều đi tham quan thành phố, cung điện nhà vua, chợ nổi trên sông, người thái diễn tuồng với cá sấu thật rùng mình, sự khôn ngoan của loài voi với trái banh trên sân football, ảo thuật và nhất là boys shows. Đi từ sáng đến chiều với anh tài xế Taxi thông thạo đường lối, một thứ thổ công nhà nghề, thù lao anh lấy có 20 đô la được anh sá lên xuống một cách kính cẩn như gặp hoàng gia Thái Lan.
Trước khi rời Bangkok chúng tôi có dịp được chụp hình với 2 con hổ ngoan ngoãn phủ phục dưới mấy tay chuyện trị thú dữ nhà nghề và đem về một kỷ niệm còn lưu luyến mãi.
Đến Hong Kong chúng tôi bước vào một khu vực nhà hàng mà người Hoa thường lui tới. Chúng tôi hơi bực mình vì dùng anh ngữ đối thoại để gọi món ăn mà không ai trong tiệm ra giúp chúng tôi giải quyết nhu cầu khẩn thiết của bao tử đang cồn cào khi ngửi thấy mùi xào nấu thơm phức , điếc lỗ mũi.
Chúng tôi tham quan leo núi, xuống biển bên cạnh những tòa nhà chọc trời san sát bên nhau như những hộp quẹt để gần nhau.
Người người đi lại tấp nập đông như ngày hội, lúc nhúc đầu đen, đầu giống đầu. Mải nhìn một chút là đã lạc nhau. Bà chị dâu tôi sanh mặt lo sợ không biềt làm sao trở về khách sạn. Đường la, tên phố lạ, ngôn ngữ bất đồng. Bà xã tôi kinh nghiệm đã đi nhiều lần, rất bình tĩnh kêu Taxi chở 2 bà về khách sạn. Hai đức lang quân hơi lo, một lúc sau gọi về khách sạn được nói chuyện với 2 bà mới yên tâm.
Chúng tôi ghé sòng bài Ma-Cao gần Hông Kông. Khung cảnh sòng bài xô bồ ồn ào không được lịch sự như sòng bài Las Vegas hay Atlantic City tại Mỹ.
Đã tới Hông Kong tiện đà chúng tôi thăm Bắc Kinh với Vạn Lý Trường Thành nổi tiếng từ lâu. Chúng tôi leo lên chỗ cao nhất của Vạn Lý Trường Thành và được phát bằng tưởng lệ đã chồn chân mỏi gối mà vẫn muốn chèo.
Đặt chân vùng Thiên an Môn bao la bát ngát của kinh thành Bắc Kinh. Thăm thành phố Thượng Hải, Trùng Khánh; đi tầu trên sông Dương Tử Và rất nhiều nơi không nhớ hết.
Khách sạn của trung quốc chỉ đáng được 1,2 sao vì vẫn còn mùi hôi của phòng tiểu tiện mỗi khi bắt buộc phải ghé nơi này. Thức ăn tại các tỉnh miền bắc trung quốc phản ảnh phong tục điạ phương nên không ngon miệng như khi chúng tôi trở về tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây trước khi trở lại Hông Kong.


Một việc thật cảm động khi chúng tôi được viếng thăm mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái được vinh dự nằm chung với nhiều ngôi mộ danh nhân Trung Quốc.
Thăm cung điện của vua chuá tàu đòi đôi chân dẻo dai, bền bỉ mới đi hết được từ cung điện này đến cung điện khác. Rộng rãi, bát ngát, kiến trúc công trình đòi hỏi rất nhiều sức lao động. Vào được điện này tưởng đã hết, mừng thầm trong bụng, nhưng vẫn còn đi mãi tới tám chín cung điện nhà vua mới hết. Lùc đó mới hiểu dược nhà vua có đủ chỗ nuôi 3000 cung nữ và đa số các ông vua đều chết non chết yểu.
Qua Mã Lai chúng tôi được anh hướng dẫn viên đưa đi thăm 2 toà buildings cao nhất thế giới, tham quan thành phố sạch và đẹp. Anh nói tiếng anh giọng đông nam á: "down there" bà xã tôi nhại tiếng "Đào nhé". Chúng tôi cười vang quên mệt mỗi khi anh chỉ chỗ đó "down there."
Qua Nhật Bản chúng tôi thấy giá trị đồng đô la mỹ nhỏ xíu. Một ly cà phê đen 5 đô, một chai nước suối, một lon coca 3 đô. Các cô tiếp đãi viên người Nhật lịch sự, dễ thương.
Nói tới sinh hoạt đắt đỏ thì bên Anh quốc cũng xếp hàng ngang ngửa với Nhật. 100 đô chuyển qua tiền tệ Anh dược có 85 pounds.
Vào nhà hàng ăn tiền tip để lên đầu check tính tiền. Xa Mỹ lâu nhớ Mac Donald vào tiệm ăn gọi mầy món như bên Mỹ. Rời nhà hàng 4 đầu người è cổ trả 50 đô thay vì 20 đô.
Xe cộ lưu hành bên trái. Qua anh quốc phải vào coi cho được viên hột xoàn thật bự của nữ hoàng anh và đi xe lửa tốc hành từ thủ đô anh quồc băng ngang qua biển Manche êm như ru vào đền tận trung tâm thủ đô Paris.
Chúng tôi đã đi thăm bảo tàng viện Louvres chụp hình trước Tour d'Eiffel, arc de Triomphe cùng nhiều di tích lịch sử của pháp quốc.
Dùng chiếc xe v.wagen của chú em rể và vợ chúng tôi đi vòng quanh nườc pháp men theo bờ biển tới vùng Nice và Cannes là nơi mà Hoàng đế Bảo Đại hay đặt chân tới. Tới vùng này tha hồ rửa con mắt cho đã vì các thiếu nữ cũng như các bà sồn sồn đều khỏa thân thản nhiên đi lại trên bãi biển.
Tiện đường chúng tôi ghé thăm sòng bài Monter Carlo qua đoạn đường đèo cheo leo nguy hiểm dựng tóc gáy. Nơi đây nữ hoàng điện ảnh Grace Kelly đã vĩnh viễn ra đi để lại muôn vàn thương tiếc cho ông hoàng xứ Monaco.
Thừa thắng xông lên chúng tôi qua Ý Đại Lợi coi tháp nghiêng Pisa. Qua vùng Florence và Venice nhớ lại những hình ảnh được coi trong các rạp cine tại mỹvới diễn viên Roger moore trong vai chàng gián điệp hào hoa, đa tình.
Chúng tôi bắt buộc phải ghé thăm kinh đô La Mã với kiến trúc tân kỳ vĩ đại có một không 2. Vào đền thờ Roma uy nghi, bát ngát với nghệ thuật kiến trúc cầu kỳ tỉ mỉ phải nhìn tận mắt, rờ tận tay mới thấy được công trình đổ mồ hôi, nước máu mắt mới có được công trình vĩ đại như vậy để lại cho hậu thế.
Chúng tôi đã đi La Mã nhiều lần được xem rất nhiều cung điện. Có lẽ phải để cả tuần liên tiếp ngày nào cũng đi tham quan từ sáng tới chiều mới tạm coi như được thường thức hết phong cảnh của Rome.
Một may mắn đặc biệt chúng tôi được ông Đại sứ Mỹ tại Ý là Tom Foglietta mời gia đình chúng tôi nghỉ hè ngay trong tư dinh của ông đại sứ. Khu vực cư ngụ của ông là một Mansion đã được chụp hình và in vào trong cuốn sách catalog trình bày những toà nhà kiểu mẫu với lối trang trí nội thất xa hoa, sang trọng, quý phái.
Trong dinh thự ông có cả chục người làm, một tùy viên chuyên giúp những việc thường ngày ông cần, một tài xế, một chef cook, một phụ cook, 2 bà làm phòng dọn dẹp trong nhà, 3 người làm vườn trông nom cây cối, hồ tắm vườn tược chiếm cả một block phố trong kinh thành Roma, 2 cảnh sát viên gác cổng dinh thự.
Trong 10 ngày nghỉ hè tại dinh đại sứ Mỹ chúng tôi được dùng bưã ăn sáng và tối với bà chị của ông đại sứ, phục vụ do kẻ hầu người hạ của ông đại sứ từ bữa ăn tới phòng ngủ.
Đặc biệt ông có con chó rất khôn. Ngày chúng tôi tới sáng nào nó cũng đến gần vẫy đuôi ngoe nguẩy mừng rỡ. Khi chúng tôi từ biệt ông đại sứ, nó buồn thiu nằm thẳng cẳng trên chiếc thảm có thêu logo toà đại sứ.
Chúng tôi cũng ghé thăm Áo quốc nơi thực hiện phong cảnh thơ mộng trong phim "The Sound Of Music", Đức quốc qua thành phố Cologne, Bỉ quốc với tượng thằng cu phun vòi rồng, hoà lan với các nàng kiều nữ ngồi trong cửa kính mời gọi du khách. Sau đó là Thụy Sĩ với Chocolat ngon tuyệt và những chiềc đồng hồ đeo tay đắt giá cả 5,7 chục ngàn đô.
Sau hơn một tháng trời ngao du thiên hạ, đi khắp vòm trời Âu Á, trở lại Mỹ quốc thấy rằng chẳng nơi nào bằng Mỹ: "No place like home."

NGUYỄN LÊ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,312,826
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến