Người viết: TRẦN CHI LIÊN
Bài số 632-1172-vb6151004
Tác giả Trần Chi Liên, hiện là một công chức tiểu bang, đã dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với bút hiệu Thiên Ân, truyện “Nửa Dòng Máu Việt”. Sau đây là bài viết mới nhất của bà.
Kể từ năm 77, 78 khi người Việt hải ngoại bắt liên lạc được với người thân nơi quê nhà, chính là lúc tôi bắt đầu nghe đến ba chữ "Tù Cải Tạo" và bao nhiêu chuyện thương tâm của người tù cũng như gia đình họ.
Trước năm 1975, gia đình nào cũng có ít nhất một người đàn ông trong quân ngũ, mỗi gia đình đều có nỗi đau riêng nhưng tất cả đều đầy nước mắt. Câu chuyện bắt đầu từ những lá thư trong nước kể lại trường hợp của chính người viết cho thân nhân nơi hải ngoại, sau đó là những bài viết trên báo chí do những người được nghe kể lại, cuối cùng chính nạn nhân viết lại đoạn đường gian nan đã qua trong các trại tù tập trung cộng sản. Không có cái khổ nào hơn cái khổ người tù đã phải gánh chịu. Không còn cảnh nào tệ hơn cảnh vợ con tù lũ lượt gồng gánh đi thăm nuôi chồng, cha. Mỗi một địa danh thuộc vùng rừng thiêng nước độc khắp nơi trong nước là một trong những nhà tù giam hãm cả một thế hệ đã hy sinh tuổi thanh xuân chiến đấu cho lý tưởng tự do. Mỗi một người tù là một câu chuyện tình với kết thúc đẹp như một bài thơ hay bi thảm như chính thân phận tù đầy của họ.
Sau mỗi lần đọc xong một câu chuyện, tôi lại bâng khuâng. Tôi không biết phải cho mình là người vợ tù "cải tạo" may mắn hay bất hạnh khi ôm đứa con hơn năm tháng theo gia đình rời khỏi quê hương trước ngày chồng vào nhà tù cộng sản lớn nhất thế giới của Việt Nam. Dẫu rằng may mắn hay bất hạnh tôi vẫn được gọi là "vợ tù" như những người đàn bà khác và chúng tôi đều có một mẫu số chung: Mỗi người vợ - dù ở bất cứ nơi đâu, tại quê nhà hay hải ngoại - đều có những băn khoăn, trăn trở, đau khổ, suy tư riêng, cùng nuốt vội nước mắt để lo cho cuộc sống còn của chồng con trong tháng năm chàng chịu trăm cay ngàn đắng trong ngục tù và cách nào chăng nữa cùng chịu cảnh "nghìn trùng xa cách".
Ngày ôm con, trong ánh mắt trông theo của chàng, vội vàng cùng cha mẹ và gia đình bỏ lại tất cả sau lưng ra đi, tôi không thể nghĩ đến hay tưởng tượng ra nổi những chuyện sẽ xẩy ra sau ngày đổi đời. Chàng có thừa điều kiện vượt thoát nhưng số mệnh vẫn là số mệnh. Chàng có số tù đầy nên không thoát khỏi cảnh tội tù cho dù chàng hứa chắc như bắp rằng:
- Em ôm con đi trước, anh về lo cho đơn vị xong anh sẽ đi sau. Anh nằm trong phi trường, đi lúc nào chả được.
Tôi đã dùng lời hứa này đến hàng nghìn hàng vạn lần để tự yên ủi mình trong những lúc thất vọng vì tin tức về chàng quá là mơ hồ và mong manh còn hơn sợi tơ hồng đã cột chúng tôi lại với nhau hơn hai năm trước.
Điều may mắn của những người vợ tù nơi hải ngoại là không phải vất vả tung mình vào dòng đời đầy hỗn loạn, giành dựt kiếm sống, không phải đối diện với những khuôn mặt chẳng phải người bỗng dưng xuất hiện để hành hạ, làm nhục những người mang danh "Ngụy Quân, Ngụy Quyền" và gia đình họ. Những người đàn bà chưa từng chân lấm tay bùn hay bon chen cho cuộc sống còn bỗng một ngày thành lọ lem. Chuyện xưa, cô bé Lọ Lem biến thành bà Hoàng. Chuyện nay - thời cộng sản, tiểu thư, học trò, cô giáo biến thành nô ... lệ (thuộc vào thái độ thù hằn của chế độ mới). Cuộc sống của mẹ con ở nhà có khó khăn thiếu thốn vẫn phải nhịn ăn nhịn mặc nhịn đủ thứ, chắt chiu dành dụm để có tiền khăn gói lặn lội vượt rừng lội suối đi thăm nuôi chồng trong tù. Trầy da tróc vẩy đến nơi còn bị chửi mắng trên đầu mà vẫn phải dạ thưa để được gặp chồng. Nhìn hình hài tưởng như không phải của chồøng trước mặt mà sao như nghìn trùng xa cách; muốn khóc mà nào dám khóc; muốn ôm nhau tỏ chút lòng nhớ thương mà chân vẫn như chôn chặt một chỗ; thời gian một hai tiếng đồng hồ gặp mặt không đủ cho bao tháng năm dài mòn mỏi đợi chờ. Làm sao dám nói, làm sao dám tỏ trước ánh mắt soi mói của cai tù"
Sự bất hạnh lớn nhất vợ tù nơi hải ngoại phải chịu chính là sự trông ngóng, đợi chờ trong vô vọng - đợi chờ ngay từ giờ thứ nhất khi rời xa nhau. Chúng tôi không biết điều gì đã và đang xẩy ra cho chồng mình bên kia nửa quả địa cầu. Nghìn lẻ một điều có thể xẩy ra chúng tôi đều nghĩ đến nhưng không có đến một điều được xác định rõ ràng. Sự chờ đợi không chỉ trong một vài ngày hay một vài tháng. Ngay từ khi đến trại tỵ nạn, hàng ngày tôi ôm đứa con còn trong lòng ra trạm xe buýt, đếm từng chuyến xe đổ người mới đến nhập trại, đến từng dẫy lều tạm trú tìm xem có chàng hay không. Đợi chờ và hy vọng mỗi ngày vơi đi theo từng tin tức nhận được:
- 28 tháng Tư phi trường Tân Sơn Nhất bị pháo kích
- Tối 28 anh rời phi trường chạy ra ngoài
- 29 tháng Tư anh vẫn còn lăng quăng ở nhà chưa tìm được đường đi
- 30 tháng Tư Saigòn thất thủ
- Mồng 1 tháng Năm, Saigon đổi tên. Chính phủ Hoa Kỳ ngưng chuyển vận người tỵ nạn.
- Bạn bè đi theo những chuyến bay cuối cùng cũng như trong các chuyến tầu của Hải Quân hoặc tư nhân sau ngày đổi đời, gặp lại cho biết không hề thấy chàng…
Sau những tháng kéo dài cảnh đợi chờ trong trại tỵ nạn với hy vọng mong manh là nghe được tin chồng, hoặc may mắn hơn được đón chồng, từ những người mới đến, chúng tôi đành phải chấp nhận sự thật là từ nay "nghìn trùng xa cách" - không chỉ là cảm tưởng vì còn được thấy chàng bằng xương bằng thịt trước mặt; phải tự mình bắt đầu cuộc sống mới nơi xứ người.
Tôi cùng gia đình gồm cha mẹ và các em đến một tiểu bang miền đông nam Hoa Kỳ với sự bảo trợ của một nhà thờ. Chị em chúng tôi sống đùm bọc lẫn nhau. Cha mẹ và các em thương mẹ con tôi bỗng dưng thành mồ côi chồng, mồ côi cha nên hết lòng lo cho mẹ con tôi đầy đủ. Chị em chúng tôi vừa đi làm vừa đi học lại để tìm tương lai. Cô em gái mười lăm tuổi sau giờ học làm trong nhà hàng, cậu em trai mười bẩy gánh thay cho chị, bỏ học leo lên những bồn xăng cao ngất trời sơn sơn phết phết trong cái lạnh cắt da của mùa đông. Tôi và cô em gái lớn đi bộ cả tiếng đồng hồ dưới cái lạnh không độ "C" để làm công việc chưa bao giờ nghĩ đến - sửa quần áo. Cuộc sống nơi xứ người không là chốn thần tiên như bao người mơ tưởng. Tuy những người bảo trợ sẵn lòng giang tay giúp đỡ, nhưng lúc đó người Việt mình vẫn còn mang lòng tự trọng luôn có trong huyết quản, vẫn rất ngại ngùng khi lên tiếng nhờ vả, nên chi cứ thế mà tự mình dọ dẫm đường đi trong cuộc sống mới. Bao nhiêu lần vấp ngã rồi lại đứng lên, bao lần và vội miếng cơm chan nước mắt...thê thảm!
Người vợ Việt Nam thời Cộng Hòa, một số không nhỏ, là một thứ ký sinh trùng nương nhờ vào đồng lương và sự bương chải của chồng. Đến xứ lạ quê người, không một chữ lận lưng, không một nghề chuyên môn, không một chút kinh nghiệm sống lăn lóc trong đời, người vợ tù hải ngoại cũng phải lăn vào giòng đời mưu sinh. Tuy chúng tôi không gặp những cảnh bóc lột, bắt bớ vô cớ, nhưng trong thời gian đầu chúng tôi là những người có đồng lương thấp nhất trong xã hội vì không hội đủ điều kiện làm việc. Cho dù chính phủ có luật lệ bảo đảm cho công nhân được hưởng mức lương tối thiểu, nhưng chủ nhân ông nào cũng có đủ mánh khóe để cắt đầu nọ, bớt đầu kia.
Trần Chi Liên