Người viết 68 tuổi, cư dân Fountain Valley, Orange County, CA. Cựu giáo sư, cựu VGS. 12.4 D.A.O., Saigon. Thuyền nhân đến Mỹ tháng 10-1976. Cựu EW 2. DPSS., Los Angeles County. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
*
Ông Nguyễn Yên, sinh trưởng ở xứ Huế, lúc trẻ chưa xong trung học, gặp thời chiến tranh, phải gia nhập quân đội, và được huấn luyện làm trung sĩ y tá. Sau bao năm theo gót chiến binh sống chết, mãn hạn trở về, cha mẹ đều qua đời, ông lưu lạc vào Quảng Nam sinh sống với nghề chích dạo và gá nghĩa với một cô thợ may vùng nầy. Nhờ có nghề, hai vợ chồng cũng dễ dàng đắp đổi qua ngày, không đến nổi quá khổ. Dù trải qua bao tang thương của đất nước, hai người vẫn lai rai sinh dưỡng được 4 cậu con trai.
Từ khi vào làm chủ Miền Nam, Các "Đỉnh Cao Trí Tuệ" đã vẽ ra những khẩu hiệu như: "Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Xã Hội Chủ Nghĩa", "Yêu xe hơn yêu con, quý xăng hơn quý máu", "Sự nghiệp Bác Hồ sống mãi trong quần chúng ta".
Không hiểu họ tiến mạnh lên ngả nào, Xã Hội Chủ Nghĩa là sao, nhưng mỗi ngày ông Yên thấy cái gì cũng khó khăn, phải mua qua tờ hộ khẩu, và Xếp Hàng Cả Ngày, với bo bo, khoai sắn sống cầm hơi. Dân tình chịu hết nỗi, nên ai có thể, đã lạy dài ảnh Bác trên bàn thờ, mà tìm mọi cách liều thân trước tầm súng AKA của C.A. Biên Phòng, để được thí mạng với đại dương sóng cả, mong trốn khỏi Thiên Đường.
Không đủ tiền lo cho cả nhà cùng đi, vợ chồng ông Yên cũng dốc sạch, chạy cho cậu con trai thứ nhì là Nguyễn Dũng, lúc đó vừa 16 tuổi, theo mấy người quen đi chui vượt biển, mong bắt một nhịp cầu cho gia đình mình được thông hơi ra ngoại quốc, kiếm chút tiếp tế về sau, và khẩn cấp nhất là tránh cho cậu nầy khỏi đi nghĩa vụ quốc tế, làm anh hùng liệt sĩ ở Cambodia.
Nhờ người tổ chức thực tâm, có mưu lược, và chuẩn bị chu đáo, chuyến đi được trót lọt sang Hồng Kông. Gặp thời Tổng Thống Jimmy Carter, hết lòng kính chúa yêu người, dùng uy tín và quyền hạn của mình kêu gọi nước Mỹ và cả thế giới cứu nguy những thuyền nhân VN lênh đênh biển cả, nên Dũng được nhận vào Mỹ một cách dễ dàng, và được nhà thờ ở Nam California bảo lãnh sắp đặt cho định cư.
Được sở Xã Hội Mỹ phát tiền chi tiêu, sau một thời gian học Anh văn, Dũng theo các bạn VN thi test, xin được vào học trường City College. Nhờ lãnh thêm tiền trợ cấp Basic Grant dễ dàng của chính phủ Mỹ và nhà trường cho làm lặt vặt có lương (work study), Dũng được thong thả có tiền ăn học liên tục hơn hai năm, và được chuyển lên Đại Học Tiểu Bang, lãnh học bỗng và vay tiền học tiếp. Bảy năm sau khi trốn khỏi Vietnam, Dũng lấy được cấp bằng B.S. về ngành Electrical Engineering.
Ra trường đúng lúc kỷ nghệ điện tử đang lên mạnh ở California, Dũng được thuê làm kỷ sư với mức lương khởi đầu khá hậu hỷ, $60,000/năm. Dũng thay xe mới, áo quần tươm tất, không khác gì một kỷ sư người Mỹ. Đúng như ta đã thường nghe: "Cộng Sản là xứ của Chính Ủy (Bí Thư), Tư Bản là xứ của Kỷ Sư".
Rồi Dũng kết hôn với một cô Việtnam, gốc Cần-Thơ cùng làm một hãng. Vợ chồng chung nhau mua một căn nhà 2 tầng mới cất, khá đẹp ở một khu trung lưu, thuộc vùng ngoại ô San Diego, trả trước 10%, phần còn lại vay ngân hàng trả góp. Mọi vật dụng, xe cộ 2 chiếc đều mới mẻ. Cuộc sống thật là hanh thông, hạnh phúc.
Thong thả, Dũng nhớ lại những ngày còn thơ ở Quảng Nam, nhớ đến cha mẹ và các anh em của chàng. Chàng thành công trong việc học việc làm, một phần vì trước kia cha chàng lúc nào cũng thúc đẩy, khuyến khích bên tai là phải cố học hành. Cha chàng muốn các con thực hiện giấc mơ trường ốc, mà đời ông đã dang dở vì chiến tranh và nghèo đói. Đã nhiều lần thấy nhà chật vật, Dũng muốn bỏ học, thoát ly gia đình, ra kiếm sống cho dễ chịu hơn, như những bọn trẻ trong làng. Nhưng cha Dũng luôn khuyên răn, an ủi và bảo: "Dù tao còn lon gạo cuối cùng tao cũng cứ ráng cho mi ăn học."
Giờ đây Dũng rất tự hào, gởi hình và thư về cho cha mẹ, cho biết chàng đã thành công như ý nguyện của cha. Dũng viết, kể rõ rằng đã có quốc tịch Mỹ, về đời sống hiện tại, gia thất, nhà cửa của chàng đều ổn định vững vàng, và bảo cả nhà lo chạy giấy tờ xin hộ chiếu xuất cảnh, để đồng thời bên nầy Dũng nộp giấy tờ bảo lãnh theo diện ODP. Trong thư chàng cũng có nhắc lời cha lúc trước về "lon gạo cuối cùng" mà chàng vẫn còn nhớ . Nay Dũng đã có đầy đủ mọi điều kiện thuận lợi để bảo lãnh cha mẹ và anh em sang Mỹ đoàn tụ.
Đọc thư xong ông bà Yên, thấy mình đã đến tuổi 60, suy yếu rồi, lại không biết tiếng Mỹ, nghĩ qua bên đó chẳng thể làm việc gì, nhưng ông vẫn muốn đi, cốt đem thêm mấy đứa con sang Mỹ cho chúng có tương lai. Thêm nữa trong thư, thấy Dũng còn nhắc lại mấy chữ "lon gạo cuối cùng", làm ông Yên rất khoái, mừng con mình chân tình nhớ ơn ông. Nên không chút do dự, ông Yên xuất hết vốn, lo dịch vụ, chạy giấy tờ đi Mỹ. Qua nhiều ải khó khăn, chi đến đồng bạc cuối cùng, lo lót cho sớm được hộ chiếu xuất cảnh, phỏng vấn và chuyến bay.
Chẳng bao lâu sau, ông bà Yên và hai con được sang đoàn tụ với vợ chồng Dũng tại San Diego, chỉ trừ người anh trên 21 tuổi, đã có gia đình riêng, nên không được phỏng vấn chấp thuận.
Không khí đại gia đình trong tháng đầu mới sang, rất vui vẻ. Nhà rộng rãi, hai người một phòng thong thả, cơm nước cũng không tốn gì thêm nhiều. Nhà lót gạch men, không chút bụi. Phòng ngủ nào cũng trải thảm đẹp, nhà có máy trung tâm điều nhiệt, bên ngoài dù nóng hay lạnh thế nào, bên trong vẫn thoáng đãng và có nhiệt độ ấm mát thoải mái. Bếp núc nấu, nướng bằng gas tự động tối tân, sạch sẽ tiện nghi, tủ lạnh to lớn chứa đầy thức ăn, dự trữ vài ba tuần chưa hết. Máy giặt, máy sấy có sẵn trong nhà, bấm nút, nửa tiếng là giặt sấy xong. Xe cộ vào tận garage sát cửa bếp.
Đường sá thì nơi đâu cũng tráng nhựa, hoặc béton ciment rộng rãi. Nhà nào cũng có sân cỏ trước, sau. và cây kiễng đều được cắt xén ngay ngắn mỹ thuật. Vợ chồng ông và hai con trai nhỏ rất mừng vui và thích thú. Ông thấy như đang lạc vào một cõi địa đàng trần thế, trái ngược với thiên đường mà Đảng đang thể hiện. Tiện nhất là trên lầu dưới nhà đều có ba bốn phòng tắm và bồn cầu, vòi nước nóng, nước lạnh, muốn tắm giờ nào cũng được, đông không lạnh, hè không nóng.
Thật là khác xa bên quê nhà, mỗi lần đi tắm, phải lội bộ ra sông Thu Bồn, xa non cây số, mùa đông gió lạnh, nước lũ đục vàng, mỗi lần tắm là một lần ớn lạnh. Mỗi lần đi tiêu, gia đình phải lội ra cánh đồng gần nhà, ngồi ven bờ ruộng, như du kích đang dàn trận, chỉa súng phục kích bắn Tây, khổ nhất là mùa mưa, ướt hết cả lưng mông. Lối đi thì bùn lầy dơ bẫn, đường làng thì ban đêm, chờ lúc vắng vẻ, người ta lại dùng làm chỗ phóng uế hôi thối, đi đẵm nghĩ lại mà ghê.
Vì đi theo diện ODP, người bảo lãnh có lợi tức cao, nên ông bà Yên và hai em Dũng không được hưởng một trợ cấp nào của chính phủ liên bang hay tiểu bang. Nhưng qua được đây ông rất mừng vui và bỡ ngỡ trước một đất nước giàu sang, bao la vĩ đại, cao ốc, nhà cửa đều khang trang, hầu hết mọi người đều có xe hơi riêng, đi lại rộn rịp, nhưng không một chút khói bụi, hàng tiêu thụ và thực phẩm vạn thứ tốt đẹp bày bán đầy trong thương xá và siêu thị. Một xã hội tư bản đang sống mạnh, ăn nên làm ra, chứ không phải đang rẩy chết như kinh điển Mác Lê mà "đỉnh Cao" đã rao giảng.
Ông Yên gốc Huế, từ nhỏ đã quen với tập quán và ý thức cổ truyền, nên đầu óc cũng còn mang lắm thành kiến theo lễ nghi Khổng Giáo Đông Phương, nhà lính tính quan, nên nhiều tự ái, khí khái quá đáng, chuyện nhỏ có thể lờ qua, nhưng cũng trở thành vấn đề thắc mắc lớn.
Cũng như nhiều người Huế rất ăn cay, ông thường cắn nửa trái ớt hiểm, nhai kèm theo miếng cơm. Ớt nầy ở Mỹ cũng chẳng đắt đỏ gì, một dollar cũng có thể mua cả bát lớn, ăn cả tuần chưa hết. Sau mỗi bữa ăn, ông thường bỏ lại trên bàn dăm ba trái ớt cắn nửa chừng. Cô dâu thấy thế nói: "Tía ăn kiểu nầy, nhà mình phải mua vài mẫu đất trồng ớt mới đũ cho tía ăn". Ông Yên nghe, rất xốn xang khó chịu, và cho là con dâu vô lễ, ông bắt đầu ốt dột.
Đám ông bà Yên sang ở được hơn tháng, hóa đơn tiền nước gởi đến thấy tăng gấp đôi. Vì trước đó nhà chỉ có hai vợ chồng trẻ và 2 con nhỏ. Nay nhà thêm 2 ông bà già và 2 cậu trai, tắm giặt nhiều hơn, tăng gấp đôi là phải. Cô dâu thấy nóng mặt và đưa ra phương pháp tiết kiệm nước, bằng cách bảo đám ông Yên rằng trước khi đi ngủ, hãy cùng rủ nhau đi tiểu một lần rồi mới giật nước. Ông Yên càng bực mình thêm và cho là con dâu quá ti tiện nhỏ mọn, nên ông càng ấm ức, và trở nên mất vui.
Lúc còn ở Việt nam, từ sau 1985, Việt Cộng vẫn học theo Trung Cộng bắt đầu dần cởi trói. Bà Yên phụ với người con trai lớn có thể mở làm nghề may, còn ông lai rai chích dạo chui, cũng có thở. Ở VN, ông là người hữu dụng, ông đóng vai trò gần như một bác sĩ gia đình trong xóm làng, cung ứng y vụ đầu tiên. Ai sốt rét thì ông chích quinine, nivaquine, ai ho lâu ngày, ông chích steptomycine, ai mệt mõi thì ông chích B-Com, B12, Vit C. Ai bị nhiểm trùng thì ông chích trụ sinh, ai mệt khó thở thì ông chích huile de camphre, ai ho cảm thì ông chích Eucalyptol, hoặc bịnh nhân mang sẵn thuốc theo toa Bác sĩ đến cho ông chích. Khi bịnh không lành mới phải đi bác sĩ, bịnh viện. Nhờ luôn có bệnh nhân, ông có tiền lai rai, được bà con làng xóm nể mến. Chiều chiều ông cũng có thể ra ngồi ở quán cóc, nhậu vài ly beer với bạn già, cười hề hà mùi với cô chiêu đãi, lãng quên thế sự tối tăm.
Được con trai bảo lãnh sang Mỹ, qua một thời gian ngắn, ông Yên thấy mình không còn thích hợp vào việc gì ở xứ nầy, suốt ngày trong nhà, luôn đóng cửa, tù túng không biết đi đâu, không biết lái xe, không có bạn bè tâm sự, cũng chẳng biết làm nghề gì để phụ tiền ăn ở với con và dâu. Ông đi học tiếng Anh cũng chữ được, chữ quên. Ông đâm ra chán nản và buồn bã, vì thấy mình xó ró, khó hòa hợp, lại thêm nghĩ là con dâu là người chi li keo kiệt, làm sao chung sống được, nên ông lại muốn quay về Việtnam, với nhà cửa đã sẵn của ông do vợ chồng cậu con lớn vẫn đang ở, tiếp tục nếp cũ, để có thể diện hơn.
Cảnh già ở Mỹ
Sáu mươi lăm tuổi xứ Cờ Hoa,
Còn những ba lăm đẹp cảnh già"
Con cháu đường riêng, ngày lễnh lãng,
Của tiền quan tính, khỏi lo xa,
Xe hơi mới cũ, tha hồ lái, (dù không lái)
Xứ lạ xa gần, mặc sức qua.
Lận đận bên trời thôi vĩnh viễn,
Mừng nhau vàng tuổi hết bôn ba. (HP.)
Ngoài ra, vì lợi tức thấp, các cụ già còn được các hãng xe bus Mỹ, quán ăn Mỹ, một số cửa hàng và những nơi giải trí công cộng, giảm giá cho, có thể từ 10 đến 30%, và county còn cho mỗi tháng một thùng thực phẩm đóng hộp. Nghe đâu bác sĩ còn viết toa cho lãnh không sữa Ensures và cả thuốc trị bịnh bất lực nữa để được giỏi như hồi trai trẻ. Ngoài ra còn được hưởng các tiện nghi ưu ái, do nhà thầu cung cấp, tiền chính phủ trả, như dịch vụ Day Care cho người già, chăm sóc, tập luyện dưởng sinh, cơm trưa, đưa đón, chở du ngoạn đó đây. Lúc yếu cùng lắm thì vào Nursing Home chờ ngày về với tiên tổ.
Khi dành dụm được ít nhiều, ông bà lại gởi giúp con cháu và bà con bên quê nhà. Chẳng còn bận rộn kiếm sống nữa, vui cảnh thanh nhàn trong mọi điều kiện ổn định. Đói no, bịnh hoạn, tiền bạc có chính phủ lo, ông bà Yên sống với nhau như cặp vợ chồng son, mới cưới, trong căn apartment tiện nghi, một tổ ấm riêng tư, mà từ khi lấy nhau hai người chưa bao giờ có. Bất cứ giờ giấc nào, cũng có thề tha hồ ngồi trà rượu, hay bày cờ tướng ra đánh, như thơ bà Hồ Xuân Hương đã mô tả, nhưng tiếc thay tạo hóa lại đố toàn, không gì trọn vẹn, vì tướng mã lại suy tàn, xe pháo thêm rời rã, ngọn cờ ngơ ngác, trống canh trễ tràng.
Mấy người bạn già biết chuyện, hỏi ông Yên còn muốn trở về Viêtnam nữa không" Ông thản nhiên đáp: "Chừ ở đây tui sượng quá, về Việtnam chi mô cho phiền rứa. Ở đây con nó bỏ, thì có chính phủ lo, khỏi phải như các cụ già Nhật phải đi 'tu tiên' phơi xương núi Phú Sĩ băng tuyết, hay các cụ VN nghèo, bệnh bơ vơ chết đường, chết chợ ở quê nhà. Nhờ chính phủ Mỹ, tui đâu có cần chi mô tụi vô tình, bất nghĩa đó."
HOPHI