Hôm nay,  

Vượt Biên Và Mãnh Đời Tỵ Nạn

25/03/200400:00:00(Xem: 160280)
Người viết: NGUYỄN LÊ
Bài số: 502-1039-vb2220304

Tác giả Nguyễn Lê cư trú tại Philadelphia, PA. Một số bài viết về nước Mỹ của ông đề cập tới nhiều đề tài khác nhau đã được phổ biến, từ kinh nghiệm mở nhà hàng ăn Việt Nam tớiø thú đi ăn nhà hàng tại Hoa Kỳ. Sức viết của ông rất điều hoà. Sau chuyện một gia đình 11 anh chị em, sau đây là bài viết nhất của ông.
*

Tôi sinh trưởng và lớn lên tại tỉnh Mỹ Tho miền Nam nước Việt. Học hết bậc trung học tại trường Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho Định Tường tôi vào đại học luật khoa tại Saigon. Chiến tranh quốc cộng ngày một mở rộng, bị động viên vào trường võ bị Thủ Đức ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Hành quân liên tiếp từ mặt trận này tới mặt trận khác và bị thương phải đưa cưa mất một chân và lắp chân giả tại nhà thương Cộng Hòa.
Năm 1975, CS vào Nam và hô hào anh em binh lính, sĩ quan, công chức chế độ Cộng Hòa miền Nam ra trình diện chính phủ cách mạng CS. Khi vào trình diện nhớ mang theo quần áo, đồ ăn trong vòng 10 ngày.
Những người đi trình diện đều yên chí là sau 10 ngày sẽ được về lại với gia đình. Họ chỉ chuẩn bị qua loa gọi là sống đủ trong thời gian đi tập trung rồi xong việc ai nấy về nhà tiếp tục làm ăn trở lại vì nay nước nhà đã thống nhất, chiến tranh đã chấm dứt sau hơn hai thập niên.
Có người chỉ từ biệt vợ con, bố mẹ một cách vội vàng và không ngờ lần từ biệt này có thể là lần cuối không bao giờ gặp lại.
Tôi có gia đình 1 vợ 4 con. Lúc ra trình diện cách mạng CS khai thành thật, đầy đủ, khai đi khai lại rất nhiều lần. Lúc bị thương cưa một chân đang ở cấp bậc thiếu úy, chuẩn bị giải ngũ. Ai cũng nghĩ tôi là người què quặt tàn tật rồi, cộng sản sẽ tha. Buồn thay và độc ác thay bọn cộng sản đã đầy đọa tôi trong tù, họ gọi là tù cải tạo trong thời gian hơn 3 năm.
Với kinh nghiệm bản thân trong tù, tôi nhận thấy bọn Cộng sản đúng là con người lòng lang dạ thú. Tôi không thể tưởng tượng được cùng một dòng máu Việt nói chung, 1 thứ tiếng mà chúng lại đối xử với những anh em đồng bào ruột thịt của mình như một con vật.
Do đó tôi quyết định tìm đường vượt biên mặc dầu phải bỏ lại người vợ trẻ, hiền với 4 con thơ sau một thời gian cộng sản thả về.
Ban đêm tôi cùng với một người bạn thân leo lên một chiếc thuyền nhỏ ra khơi chuyển qua một chiếc gọi là tàu chứa được 18 người cả đàn ông lẫn đàn bà sau khi đã đóng 3 lượng vàng.
Tàu đến gần bờ biển Thái Lan thì bị bọn hải tặc uy hiếp bắt 6 người đàn bà con gái lên tàu của chúng, những người đàn ông trên tàu chúng lục soát lấy hết đồ đạc trên người như đồng hồ đeo tay, giây chuyền vàng, cà rá và đục thủng tàu cho chìm luôn mất tang chứng.
Tôi và một thanh niên trẻ tuổi bám vào những chiếc bình đựng nước sau khi đã uống hết, lênh đênh trên biển bảy ngày đêm. Bảy ngày, bảy đêm không ăn không uống, không bị cá mập nuốt. Không nhờ ơn trên sao thân xác con người có thể chịu đựng dẻo dai như vậy được"
Tôi phải cảm ơn Trời đã cho tôi được sống sót với người thanh niên cùng trôi dạt vào bờ biển. Người bạn cùng ra đi với tôi đã bỏ xác trên bờ biển cùng với 14 người trong tàu. Sáu người đàn bà bị bọn hải tặc bắt lên tàu chung sống sót được 2 người sau cuộc điều tra của phái đoàn Liên Hiệp Quốc.


Được qua định cư tại Mỹ với tuổi 30 lại bị thương tàn tật, nghề nghiệp chuyên môn không có, sức khỏe không có, không làm việc lao động được. Chỉ còn một con đường duy nhất là cắp sách đến trường. Với ý chí cương quyết không quản ngại khó khăn tôi đã lấy được bằng cử nhân và xin được một việc trong cơ quan của chính phủ liên bang.
Trong thời gian đi học một phần được học bổng chính phủ giúp đỡ một phần mượn tiền đi học và những lúc rảnh rỗi cũng đi làm những việc tay chân kiếm thêm tiền gởi về giúp vợ con đang bị thiếu thốn nghèo khổ phải ôm đàn con thơ về tá túc bên ngoại.
Tôi vượt biên năm 1987 trong hoàn cảnh thập tử nhất sinh tưởng chết mất xác trên biển cả chẳng còn bao giờ gặp lại được vợ yếu con thơ.
Sau 14 năm trời dài đăng đẳng một thân một mình nơi xứ lạ quê người, không họ hàng, không bà con. May mắn thay sau khi làm đơn xin đoàn tụ tôi đã được gặp lại người vợ yêu dấu năm nào cùng 4 đứa con nay đã lớn tồng ngồng. Năm 2001 là năm tôi ghi nhớ mãi mãi trong đời, năm mà cuộc đời tôi hồi sinh bước sang một khúc rẽ mới.
Hai đứa con lớn của tôi hồi còn ở trong nước thiếu ăn, hoàn cảnh nghèo không được ăn uống đầy đủ trong lúc tuổi 1 ngày 1 lớn lên nên qua Mỹ mặc dầu đồ ăn thừa thãi thân hình vẫn èo ọt, không đủ chiều cao. Còn 2 đứa nhỏ với đồ ăn đầy đủ chất bổ chúng lớn như thổi có da có thịt chiều cao lớn như người Mỹ.
Ban ngày đi làm ban đêm đi học thêm. Vì đã có căn bản nên sau 2 năm vừa làm vừa học miệt mài không còn biết đến chuyện bên ngoài tôi đã lấy được bằng master. Sẵn chớn học tôi đã lấy được bằng tiến sĩ về luật khoa sau 3 năm dùi mài kinh sử. Hy vọng mai mốt kiếm thêm tiền khi mở văn phòng luật sư.
Vợ tôi thấy tôi ngày đêm vất vả vừa làm vừa học cũng đi kiếm việc làm phụ giúp chồng con lo việc giữ nhà.
Cuối cùng tôi đã dành dụm được một số tiền sau khi trả hết tiền vay nợ đi học và đặt tiền cọc mua được 1 căn nhà 3 tầng.
Các con tôi thì 2 đứa đã vào đại học và 2 đứa sắp học xong bậc trung học.
Hoàn cảnh ông thiếu tá trong binh chủng tôi thì may mắn hơn tôi rất nhiều. Ông đem vợ con vào phi trường Tân Sơn Nhất đêm 29 rạng 30 tháng 4 năm 75. Tờ mờ sáng ngày 30 tháng 4 chiếc trực thăng cuối cùng chở vợ con ông và các binh sĩ thủy quân lục chiến Mỹ rời khỏi Việt Nam. Ông được trực thăng bốc thẳng ra hàng không mẫu hạm Midway đậu ngoài khơi và chuyển đảo Wake và căn cứ hải quân Mỹ tại Phi Luật Tân.
Ông hoàn toàn may mắn không bị tụi cộng sản đày đọa trong tù, bỏ đói bỏ khát, mất tự do mất nhân phẩm của con người. Ông không phải trãi qua những giờ phút hãi hùng trên biển cả, mưa to gió lớn với chiếc tàu như chiếc lá tre giữa biển cả mênh mông.
Tôi cùng ông ôn lại quá khứ của cuộc đời thăng trầm từ năm 1975 tới năm 2004 trên một chuyến xe buýt tới Atlantic City bang New Jersey. Hành trình chuyến xe dài hơn một tiếng đồng hồ, chúng tôi trò chuyện mãi miết tới bến xe lúc nào không hay. Chia tay từ biệt còn luyến tiếc những giây phút đã qua trong lòng thầm nghĩ sao thời gian trôi mau như vậy"
Nguyễn Lê

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,457,609
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến