Hôm nay,  

Nước Mỹ Buồn Vui

15/09/200300:00:00(Xem: 152065)
Người viết: VŨ ĐỨC NGHIÊM
Bài số 349-888-vb3090903

Hôm nay, ngày 11 tháng 9, kỷ niệm 2 năm nước Mỹ bị khủng bố tấn công, giải thưởng Việt Báo trân trọng giới thiệu bài viết về nước Mỹ đầu tiên của tác giả Vũ Đức Nghiêm, 74 tuổi, đang sống hưu trí tại San Jose.
“...Tôi đã trở thành công dân Mỹ, tôi chia xẻ buồn, vui với người dân đất nước này. Sau biến cố 911, trong các buổi lễ đốt nến tưởng niệm và cầu nguyện cho nước Mỹ, tôi đã nghẹn ngào, âm thầm rơi nước mắt thương cho các nạn nhân của vụ khủng bố...” Tác giả kể vậy, nhưng không chỉ có vậy.
Sinh ngày 30-6-1930 tại:làng Hoành Nha, Giao Thủy, Nam Định, tác giả từ năm sáu tuổi đã có dịp gặp người Mỹ, trẻ con Mỹ. Sau đây là bài viết của ông, một hồi tưởng về người Mỹ, nước Mỹ ròng rã gần 70 năm qua. Mong ông Nghiêm sẽ tiếp tục viết thêm.

Từ những ngày thơ ấu, tôi đã có dịp nhìn thấy người Mỹ qua gia đình một Mục sư Mỹ đến giảng đạo Tin Lành ở quê tôi, làng Hoành Nha, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Ông bà và cha mẹ tôi đã tin nhận Chúa từ những năm đầu của thập kỷ 1930, nên ông bà nội đã mời Mục sư Pruett đến quê tôi trong một kỳ giảng bố đạo. Ông bà Muc sư Pruett có mấy con nhỏ trạc tuổi tôi cùng đi theo. Tôi nhìn chúng một cách lạ lùng vì chúng có nước da trắng trẻo, mái tóc vàng như râu ngô, và đôi mắt xanh biếc như mắt mèo. Bọn chúng ăn mặc sạch sẽ, quần áo có mùi thơm nhẹ nhàng khi chúng chơi đùa gần tôi.
Tôi chỉ mới lên 5, 6 tuổi và bản tính nhút nhát nên chỉ dám đứng nhìn, lòng thầm mơ ước sẽ có ngày được như mấy đứa nhỏ ấy. Cho đến năm 1950, sau những ngày tháng tản cư, tôi trở về Hànội, học lớp đệ Nhị trường Chu văn An. Vốn liếng Anh ngữ của tôi, học sinh thi Tú tài Một cũng chỉ vỏn vẹn mấy bài học trong L'Anglais Vivant , tạm đủ khả năng dịch mấy bài tập từ Việt sang Anh và ngược lại, mà không có thực hành. Khi tôi gặp Mục sư Taylor ở nhà thờ Tin Lành Hà nội, tôi chỉ nói được một câu chàovà hỏi một câu thật vô duyên: Are you busy" Tôi phát âm "busy" là ''biu-zi'', theo cách đọc của các thầy dạy tiếng Anh hồi đó. Mục sư Taylor mỉm cười trả lời nhỏ nhẹ: ''No, I'm not busy'', Ông phát âm tiếng busy thật rõ là ''bi-zi''như muốn giúp tôi phát âm cho chính xác. Tôi bị choáng ngợp đến nỗi hầu như lưỡi bị cứng đơ, bao nhiêu điều muốn nói dường như quên hết. Nếu hồi đó tôi can đảm hơn, bình tĩnh hơn, có lẽ tôi cũng đã nói cho mục sư Taylor biết nguyện vọng của tôi là tôi muốn học tiếng Anh, và biết đâu cuc đời tôi đã chẳng có những khúc rẽ quan trọng.
Năm 1951, tôi nhập ngũ, học trường Sĩ quan Trừ bị tại Nam định. Sau một thời gian đi tác chiến và ở các đơn vị trong quân đi, tôi được theo học một khoá Anh ngữ cấp tốc tại Trụ sở Hi Việt Mỹ Sài gòn. Ý thức được tầm quan trọng của Anh Ngữ, tôi cố gắng trau dồi môn sinh ngữ này, và sau khoá học ít lâu, tôi được về làm giảng viên Anh ngữ tại Trường Anh ngữ quân đi, b Tổng Tham Mưu.
Tháng 9-1958, tôi được cử đi làm thông dịch viên tại Trường B binh Fort Bennộing, Ga.
Được tiếp xúc thẳng với những sĩ quan Mỹ, tôi học hỏi nơi họ nhiều điều thiết thực giúp tôi nhìn xa hơn và tôi ước mơ sẽ có ngày trở thành công dân Mỹ và sống ở miền đất này như quê hương thứ hai của tôi.
Tháng 4-75, tình hình ở Sài gòn trở nên bi đát, Cng quân đã vào sát thủ đô, tôi vi vã tìm đường di tản vợ con, nhưng không cách nào đi thoát.
Giặc Cng cưỡng chiếm miền Nam, cũng như các bạn sĩ quan khác, tôi đi trình diện học tập, với nộiềm hy vọng mong manh là chỉ đi trong 30 ngày như thông cáo của Việt Cng. Rút cục, sau một năm bị giam ở các trại Long giao, Suối Máu, chúng tôi bị đưa ra Bắc, ở vùng rừng núi Hoàng liên sơn từ tháng 6-76.
Đây là giai đoạn bắt đàu những ngày lưu đày cực kỳ gian khổ vì chính sách dã man và tàn bạo của giặc Cng. Phần lớn chúng tôi mang tâm trạng của người con gái nhà lành ngây thơ, bị người tình đẹp trai, giầu có dụ dỗ, những tưởng cuc sống thanh bình no ấm, nhưng người tình đã phản bi, hèn nhát bỏ chạy khi giặc cướp tràn vào, bắt người con gái về làm tôi mọi cho chúng và bị chúng hành hạ tơi bời cho bõ ghét ; tuy vậy nguời con gái đó vẫn chẳng bao giờ nguôi thương nhớ người xưa, vẫn mơ ngày người xưa trở lại cứu mình khỏi tay bọn giặc.
Tâm trạng đó ám ảnh chúng tôi, ngay cả khi đang cuốc đất, chặt cây phát hoang trên rừng, khi nghe tiếng trực thăng bay qua, tôi thầm mơ ước, và tưởng tượng đến lúc tiếng loa phóng thanh trên trực thăng kêu gọi các anh em tù tập hợp ở trảng ven rừng cho quân bạn đến bốc đi. Tôi mơ mng hão huyền như vậy khi nhớ đến lần Mỹ đổ quân xuống Sơn Tây để giải cứu tù binh hồi trước 1975; nhưng khi tiếng trực thăng xa dần, tôi mới thở dài vì thất vọng. Có lần , chúng tôi đang chở đá về xây thêm phòng giam ở trại tù Nghệ Tĩnh 6, chợt nghe tiếng còi xe hơi từ xa vang vọng lại;có tiếng một anh tù la to: Tới rồi! Tới rồi! '' Lập tức, những tiếng la hưởng ứng khác vang di: Tới rồi! Tới rồi! '' Tên võ trang tức điên lên gọi đi trưởng đến nạt: Các anh la: Tới rồi có nghiã gì" Đi trưởng ấp úng: Molotova tới rồi! Tên VC tức tối: Chứ không phải là Mỹ tới đón các anh hả"'' Hoạt cảnh này hầu như xẩy ra ở nhiều trại, nói lên nộiềm khao khát của những người tù, tuy giận người tình phụ bạc, (Mỹ) nhưng ''giận mà thương! ''
Khoảng giữa những năm 1980. có tin Tướng Vessey được cử sang Việt nam nói chuyện với VC về tù cải tạo, nộiềm hy vọng nhen nhúm trong lòng mọi người. Trong thời gian này, vợ tôi gửi vào trại một tờ đơn của cha mẹ tôi từ Californộia bảo lãnh cho vợ con tôi sang Mỹ đoàn tụ, dặn tôi phải ký giấy chấp thuận cho vợ con đi trước, còn tôi sẽ đi sau. Tên cán b quản giáo nói rằng: Anh là tù, anh không được quyền ký giấy cho vợ con anh đi đâu cả. ''Trước lý luận ngu xuẩn cuả VC, tôi im lặng, vì biết co ùtrình bày, giải thích với chúng cũng vô ích.
Tại trại Hàm tân, một ngày đầu tháng 9-1981, VC gọi tên 13 người tù, trong đó có Duy Lam Nguyễn Kim Tuấn và tôi, đem theo mọi hành trang cá nhân để ''chuyển trại đến một nơi có điều kiện học tập tốt hơn'', theo lời chúng nói.


Một chiếc Molotova bít bùng kín mít đem chúng tôi đi. Duy Lam và tôi bị còng tay chung một còng số 8. Dọc đường, có anh nhìn qua khe hở của tấm vải bạt, loan báo là xe chạy về hướng Sài gòn; mọi người khẽ nói với nhau, ''không lẽ chúngcho mình về Sài gòn để trả tự do"''
Rút cục chúng đem chúng tôi giam ở khám Chí Hòa. Tôi bị nhốt một mình trong xà lim số 32, khu ED. Trong nỗi cô đơn mịt mùng của tù ngục, vì xà lim tối âm u, các cửa sổ đều bị bít kín, chỉ có một ngọn đèn hắt hiu, ngày đêm toả ánh sáng vàng vọt, tôi cảm thấy một nỗi chán chường và mất tinh thần ghê gớm. Sau khi lau chùi , quét dọn căn xà lim chừng 6m2, tôi quỳ xuống cầu nguyện, xin Thượng đế giúp tôi thêm can đảm và nhẫn nhục để vượt qua chặng đường gian khổ này.
Ngày tháng dần qua, tôi đã quen với bóng tối và nỗi cô đơn, và tôi giết thì giờ bằng cách sáng tácmột vài giai điệu ghi lại những cảm xúc trong xà lim. Tôi hằng trông đợi sự giải cứu từ Thượng Đế và dụng cụ Ngài sẽ là Mỹ để giải thoát chúng tôi! Âm thanh của bài hát The Star-Spangled Banner ( Quốc ca Mỹ) làm lòng tôi phấn khởi vô cùng khi hát một mình trong bóng tối:
. . . . ''And the rockets red glare, ''
''The bombs bursting in air''
''Gave proofs through the nộight''
''That our flag was still there! ''
'' Our flag was still there!
Tôi ngậm ngùi, bâng khuâng nhớ đến ngày 30-4-75, tại Sài gòn, đại sứ Mỹ cuốn cờ tháo chạy. Tôi cứ tưởng rằng sẽ không bao giờ còn được thấy lá cờ đó nữa. Nhưng tôi tin rằng hình ảnh ''the flag was still there'' đã làm Francis Scott Key nức lòng nhìn lá quốc kỳ Mỹ tung bay trên kỳ đài đồn Fort Sumộter trong trận chiến giành độc! lập của Mỹ năm 1812 để có cảm hứng viết lời ca''The Star-Spangled Banner'' bất hủ. Lá cờ đó còn tung bay mãi mãi trong tim tôi như một biểu tượng rực rỡ cho một ngày quê hương tôi sẽ không còn bóng cờ máu của giặc, khi lá cờ 50 ngôi sao sẽ góp phần trong sự nghiệp giải thoát hơn 70 triệu đồng bào và quê hương tôi khỏi tay giặc Cộng sản bạo tàn đang xéo dầy, phá nát quê hương tôi. Trong niềm cảm xúc ấy , tôi đã viết lời ca theo điệu quốc ca Mỹ như sau:

''Ô kìa, bầu trời cao''
''Phất phới bay cờ sọc sao, ''
''Trời bừng sáng hay ban chiều ,
''Nhìn cờ bay với bao tự hào.

''Giữa sa trường đầy gian lao,
''Vẫn tung bay cờ sọc sao.
''Lồng lộng gió trên chiến hào,
''Hồn non sông hiên ngang vẫy chào. ''
''Đầy trời rền vang trái phá,
''Tiếng bom gào như xé gió.
''Hãy vừng tin trong đêm dài'', ''
''Nhìn lên lá cờ còn đây. ''
''Này người ơi, hay chăng lá cờ hào hùng''
''Trong gió bay vẫy vùng''
''Miền trời tự do, lòng ta yêu dấu''
''Là quê hương những anh hùng"''
(Chí hòa, tháng 10-1981)

Bài hát này luôn vang vọng trong lòng tôi, giúp tôi vững tin là nước Mỹ dù có mang tiếng là kẻ bỏ rơi đồng minh, nhưng rút cục vẫn là chỗ dựa, ít ra là về tinh thần cho những kẻ bị đày đọa như chúngtôi. Những tin tức về tướng Vessey và những thoả thuận giữa Mỹ và Việt cng về tù cải tạo, dù không rõ rệt lắm cũng làm chúng tôi lên tinh thần và hy vọng nhiều hơn.
Tôi nhớ lại có lần đi thăm pho tượng thần Tự do, tôi đọc được những giòng chữ khắc trên bệ:
''Give me your tired, your poor'',
''Your huddled masses yearning to breathe free'',
''The wretched refugee of your teeming shore''
''Send these, the homeless, tempest-tossed to me''
''I lift my lamp beside the golden door! ''
Chuyển ngữ tiếng Việt của Tin Biển, San Jose:
''Hãy đem cho ta những kẻ nhọc nhằn, nghèo khó, ''
''Đám đông chen chúc, hỗn độn thèm khát được thở tự do''
''Những dân tỵ nạn bất hạnh tràn ngập cả bến bờ''
''Hãy đem cho ta những kẻ không nhà bị dập vùi vì bão tố''
''Ta giơ cao ngọn đuốc bên cánh cửa vàng! ''
Ôi ! sức mạnh của những lời tuyên ngôn hừng hực lửa thương yêu, vượt Thái bình Dương mênh mông, chiều nay tràn ngập trong tim người tù khốn khổ, đem lại niềm an ủi cho tâm hồn chán chường tuyệt vọng của tôi! Tôi nhẩm đọc những lời tuyên ngôn trên cho đến khi thuộc lòngvà hết lòng cám ơn tác giả những lời tuyên ngôn vàng ngọc trên đây.
*
Rút cục, cũng đã đến ngày tôi được trả tự do và tôi đã được sang Mỹ đoàn tụ với gia đình tại San Jose, Californộia,. ngày 1-11-1990 theo chương trình đoàn tụ HO-04. Nghĩ về nước Mỹ với những kỷ niệm buồn vui, tôi nhớ đến câu mà người ta thường hay nhắc đến:
''To be an enemy of the United States could be discomfort;
to be a friend, as Republic of Vietnam found to its sorrow, could prove fatal, ''
Xin được tạm chuyển ngữ như sau: ''Là kẻ thù cuả Mỹ có thể khó chịu, nhưng là bạn của Mỹ, như Việt nam Cộng hòa đã cảm nhận trong niềm đau của họ, thì chỉ có ''từ chết tới bị thương''!
Lại có người cho rằng: “Yêu ai, xin đưa họ đến Mỹ, vì Mỹ là Thiên Đường.Ghét ai, xin đưa họ đến Mỹ, vì Mỹ là Địa ngục.”
Những suy nghĩ trái ngược nhau như vậy, có căn nguyên từ đâu"
Tôi không muốn bàn đến vấn đề này vì nó rất phức tạp và nhức đầu. Trong phạm vi bài này, nói về nước Mỹ buồn, vui, tôi chỉ muốn nói lên lòng biết ơn của tôi đối với nước Mỹ và dân tộc Mỹ, là sứ giả của Thương đế, đã mở rng vòng tay tiếp đón chúng tôi, cũng như hàng trăm ngàn gia đình Việt nam khốn cùng khác, từ vùng đất đọa đầy ngay trên quê hương mình đến một vùng đất trù phú, tự do, tương đối an ninh và thịnh vượng. Trước ngày rời Việt nam , Việt cộng bắt chúng tôi ký giấy là không được phản bội và chống lại quê hương, tôi phải ký như một hình thức ''nín thở qua sông! ''. Quê hương Việt nam yêu dấu của tôi, làm sao tôi có thể phản bội và chống lại quê hương" Có chăng là chống lại bọn giặc Cộng tham tàn bạo ngược đang ngự trị trên quê hương mà thôi. Trước sau, tôi chỉ là công dân của Việt nam Cộng Hòa, và không bao giờ là công dân của cái quái thai Công hoà xã hội chủ nghĩa mà giặc Cộng áp đặt lên Tổ quốc tôi.
Hiện giờ, tôi đã trở thành công dân Mỹ, tôi chia xẻ buồn, vui với người dân đất nước này. Sau biến cố 911, trong các buổi lễ đốt nến tưởng niệm và cầu nguyện cho nước Mỹ, tôi đã nghẹn ngào, âm thầm rơi nước mắt thương cho các nạn nhân của vụ khủng bố, cũng như tôi nức lòng chia xẻ nỗi vui mừng nhìn các cuộc diễn hành của quân đội trong ngày lễ Độc Lập của Mỹ. Tôi yêu mến và biết ơn quê hương này, biết ơn các anh hùng cuả Mỹ đã trong hơn 200 năm qua anh dũng chiến đấu, xây dựng , bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Hoa kỳ.

VŨ ĐỨC NGHIÊM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,080,530