Hôm nay,  

Viết Cho Em Trai Tôi

16/04/200300:00:00(Xem: 278502)
Người viết: Karen N. Nguyen
Bài tham dự số 3171-778-vb70412

Tác giả Karen N. Nguyen, sinh năm 1962, hiện là một pharmacist, làm việc và cư trú tại Maryland. Cô đã góp nhiều bài đặc biệt cho giải thưởng viết về nước Mỹ, trong số này có bài “Chuyện Cấm Đàn Ông” hơn 5 tháng qua nằm trong danh sách “top 10” được đọc nhiều nhất trên Việt Báo Online. Lần này, “Viết Cho Em Trai Tôi” là chuyện một gia đình người lính Việt Nam Cộng Hòa, từ tháng Tư 1975. Gần 30 năm, từ quê nhà ra hải ngoại, tù ngục, chia lìa, khổ nhọc, phấn đấu... Chỉ là chuyện bình thường của mọi gia đình H.O. tại Mỹ, nhưng với lối viết đầy chân tình của Karen N. Nguyen, trở thành một tình ca gia đình đầy yêu thương, xúc động, tự hào.
*

Mẹ sinh em năm Sửu.
Bố gọi điện thoại ở chỗ làm vào nhà bảo sanh, bà ngoại nói với bố là em cân nặng 2 kg 3. Bố nghe sao lại tưởng là em cân nặng 3 ký lô 2, đến lúc vào nhà bảo sanh thì bố mới thấy cậu con trai đầu lòng của bố, cháu đích tôn của ông bà nội, người nối dõi tông đường của Nguyễn gia, là một chú bé nhỏ xíu.
Các bác bạn của bố về sau còn đùa bảo là bố vào sở làm bảo với bạn bè là em chỉ nhỉnh hơn cái chai bia 33 có chút thôi. Chị lúc đó đã là một cô bé 9 tuổi, đến lúc mẹ đem em về nhà, chị xin mẹ cho chị bế em, em nằm trong vòng tay chị như một con búp bê tí hon, con búp bê có mái tóc đen hơi quăn quăn biết nheo nheo mắt nâu và chum chúm môi hồng dễ thương vô cùng. Chị không hề ganh tỵ với em, dù biết rằng với ông bà nội thì em bây giờ là số một, còn chị thì xuống thứ hai.
Em tuổi Sửu mà chẳng xổ sữa đô con chút nào hết. Theo thời gian em chỉ lớn chiều dài mà chẳng lớn chiều ngang, mẹ hay đùa bảo chắc mai mốt con trai mẹ thành thư sinh trói gà không chặt quá đi. Vậy chứ chiều nào bố đi làm về cũng hay dắt em ra phố chơi, em thích ngồi xe buýt đi cùng trời cuối đất với bố. Bố dắt em ra bến Bạch Đằng đi phà qua lại trên sông, xem mấy con tàu thật lớn giăng cờ xí đủ màu neo ngoài đó. Rồi em với bố là khách hàng quen thuộc của bà xẩm già bán đồ chơi ngoài chợ, xe hơi nhựa nào bà bán em cũng có, mua về là tay chàng thư sinh bé nhỏ của mẹ táy máy tháo ngay 4 chiếc bánh xe.
Năm 75 tới em chưa tròn 2 tuổi.
Em còn quá nhỏ để mà nhớ cái thời điểm khốc liệt đau thương của Saigon và của cả gia đình mình. Em còn quá nhỏ không thể nào nhớ được tiếng đạn pháo xé trời của những ngày cuối tháng tư, tiếng Dương Văn Minh đọc lời đầu hàng cộng sản và tiếng nhạc sĩ họ Trịnh hồ hởi hát bài "Nối vòng tay lớn" trên radio thành phố. Em còn quá nhỏ để mà nhớ bố ngồi thức thâu đêm với điếu thuốc lá trên tay, còn quá nhỏ để mà nhớ tóc bố mỗi ngày sau tháng tư đen tối đó lại dường như bạc thêm một mảng. Bố chúng ta, một trong những người lính Việt Nam Cộng Hòa kiên quyết không di tản mà ở lại chiến đấu đến tận giờ phút cuối cùng, giờ phải bỏ quân phục của mình, vất bỏ súng ống của mình, chờ đợi thông báo của cái gọi là ủy ban quân quản thành phố để mà đi cải tạo. Em còn quá nhỏ để nhớ cái ngày bố ra khỏi nhà đi “trình diện học tập”. Đó là ngày thứ sáu mười ba, cái ngày theo dân Tây Phương thì xấu không thể tả. Chập choạng tối ngày hôm đó bố vác cái bao hành lý đi ra khỏi nhà, em thì vẫn còn đi chưa vững và nói chưa sõi, em cứ níu tay mẹ xin được đi theo bố, rồi em ngơ ngác không hiểu sao cả mẹ và chị nước mắt nhạt nhòa dõi theo bóng bố rời xa.
Bố đi biền biệt. Nhà nước Việt Cộng bảo là cấp bậc như bố thì phải đi cải tạo một tháng. Tháng này nối tiếp tháng kia, bố chẳng trở về. Không thư từ, không tin tức cả hơn năm trời.
Ngày đổi tiền đến. Tối mịtmà vẫn chưa đến phiên nhà mình đổi tiền mới. Chỉ có cơm với nước mắm kho quoẹt. Em khóc đòi mẹ mua "bông bông cải" ăn với cơm. Chị dỗ em ăn cơm mà ráng nuốt nước mắt vào lòng, không muốn để mẹ thấy rồi mẹ lại đau khổ hơn.
Em chỉ vòi vĩnh có lần đó mà thôi. Em an phận lớn lên bằng khoai mì suông chạy chỉ đen thui, bằng khoai lang sùng đắng nghét, bằng bo bo nhai mỏi cả răng, bằng gạo mục đầy bông cỏ, bằng mì ướt mốc meo phơi nắng cho khô. Em ốm nhom đến nỗi gió thổi cũng có thể cuốn em bay mất. Vậy mà khi em đến tuổi đi học, em đã làm mẹ và chị ngạc nhiên vô cùng khi em vỗ ngực xưng rằng từ nay em sẽ là "người đàn ông gánh vác việc nhà". Cậu bé đứng chưa cao hơn cây chổi quét nhà mà dám đảm nhận trọng trách như vậy, mẹ nghe em nói mà nước mắt vòng quanh.
Em nói và em giữ lời hứa của mình. Ngoài giờ học em về nhà là lo quét nhà, lau bụi cửa sổ. Chị giặt quần áo và đem phơi thì em phụ gấp quần áo khi chúng đã khô. Em tự lo bài vở ở trường, không đợi đến mẹ và chị kiểm tra, thúc giục. Em không có món đồ chơi nào ra hồn ngoài mấy sợi dây thun, mấy tờ giấy báo để dán diều và mấy lon sữa guigoz đục lỗ để em nuôi dế. Vậy mà em không than thở, khóc lóc hay đua đòi có cái này cái kia như mấy đứa bạn học trong lớp hay mấy đứa con cán bộ bên nhà hàng xóm. Em như cái mầm nhỏ bé, gặp phải mảnh đất khô cằn nhưng vẫn ráng vươn lên không chịu lụi tàn.
Mẹ viết thư cho bố, thư nào cũng có chuyện kể về em cho bố hay. Bố viết thư về hỏi thăm con trai của bố, em đọc rồi hỏi mẹ có biết bao giờ bố về hay không. Câu hỏi đó mẹ không bao giờ trả lời được. Người ta mang bố lên tít mù vùng núi thượng du Bắc Việt, cả mấy tháng trời bố mới gởi một lá thư về nhà.
Mãi đến năm 79 xảy ra chiến tranh với Trung Quốc bố mới được dời về trại giam ở Hà Sơn Bình. Mẹ ngồi xe lửa 3 ngày 3 đêm, lặn lội gần cả ngày trời nữa mới tìm được đến trại giam để thăm bố. Mẹ gặp bố chưa tới 1 ngày, rồi lại lặn lội trở về miền Nam, rồi lại 3 đêm 3 ngày ngồi bó chân trên chuyến tàu Thống Nhất chuyến tàu có cái tên lý tưởng mà thực tế lộ trình chứa đầy bao bất trắc, gian nan.
Vậy mà năm sau, mẹ dũng cảm dắt hai chị em ra thăm bố. Đến ga Huế 2 chị em xuống mua cơm dĩa, bận mua bán thế nào mà tàu huýt còi chạy 2 chị em mới hay, chạy theo nhảy được lên tàu mà 2 đứa hết cả hồn, xém chút nữa là thành 2 đứa trẻ tha phương cầu thực ở xứ lạ quê người rồi.
Vào đến trại giam, ba mẹ con ngồi trong phòng đợi của trại. Hôm đó cũng có nhiều người từ miền Nam ra thăm thân nhân. Lúc dòng người tù bước vào cửa, chị nhìn trong số đó tìm được bố ngay. Bố già đi rất nhiều, ốm và đen thùi lùi. Bố mặc quần áo tù cũ mèm, mốc thếch, mang dép nhựa, không còn giống hình ảnh bố mà chị nhớ ngày xưa, lúc bố mặc quân phục gọn ghẽ, mai vàng trên cầu vai sáng lóa, giày đánh xi đen bóng, bước từ xe Jeep xuống. Em thì lại nhìn quanh nhìn quất, mãi đến khi bố đến gần, gọi tên em thì em mới thốt lên: "Bố ơi, nãy giờ con cứ nhìn mấy ông cao cao ở kia kìa, sao bố lùn thế"" làm chị và mẹ đứng ở gần há hốc miệng ngạc nhiên. Ừ, thì cũng đúng thôi, ngày bố rời nhà em đi vẫn chưa vững, làm gì em nhớ được bố ra sao. Mấy tấm hình bố mặc quân phục, về sau mẹ lấy kéo cắt bỏ hết, chỉ còn chừa lại phần hình có khuôn mặt bố thôi, rồi mẹ cũng cất vào ngăn tủ, chỉ còn một tấm chân dung của bố treo trên tường, ngày ngày ra vào em thấy, trí óc bé nhỏ thơ ngây của em cứ vẽ vời cho là bố cao lớn vô cùng.
Ba mẹ con được ở chung với bố trong một cái chòi nhỏ chỉ có độc một cái giường tre chơ vơ cạnh một cái ao trong một đêm, rồi hôm sau lại phải ra về. Trong đoàn người vào thăm thân nhân ở trại, em là người bé nhất, bé đến nỗi em lấy thử cái áo tù của bố mặc ướm vào thì áo dài đến chấm gót chân em. Bố dắt em qua mấy căn chòi kia giới thiệu cậu con trai với các bạn tù, có một ông bạn biết làm thơ nảy ý viết tặng bố một bài thơ dài, chị giờ chỉ còn nhớ có mấy đoạn thôi:

Áo bố mặc vào chấm gót chân
Mặc đi mặc lại mấy mươi lần
Nói sao được thấu lòng con trẻ
Thánh thót như là khúc nhạc xuân

Nắng hạ miền Nam trong sáng lắm
Ruộng vườn hoa trái nở xum xuê
Trăng ngàn gió bể soi đôi ngả
Gió lộng tự do bố chửa về…

Gió lộng tự do bố chửa về. Gió lộng tự do, nhưng người ta vẫn nhốt bố của chị em mình năm này qua năm khác. Mẹ thu xếp cho cả nhà ra thăm bố được một lần duy nhất. Mấy năm sau điều kiện tài chánh trong nhà eo hẹp, chỉ có một mình mẹ lặn lội đi thăm nuôi.
Mãi đến năm 83 bố được chuyển về trại Long Khánh, chị em mình mới gặp bố lại. Kỳ này cả nhà phải thức dậy từ 3, 4 giờ sáng đón xe đò, rồi sau đó còn phải ngồi xe lam thì mới vào cổng trại giam. Em vẫn là một cậu bé mảnh khảnh, lần nào mấy ông tài xế xe lam cũng nhét em ngồi trên nóc xe lam, xe chạy qua không biết là bao nhiêu ổ gà lớn nhỏ đủ cỡ trên đường vào trại, dằn xốc ghê hết biết, mẹ với chị tim đập lô tô sợ em văng té xuống đường thì khốn. Mà em bám vào xe lam giỏi thật là giỏi, lại chẳng có say sóng gì hết. Chẳng bù cho chị, nhiều lần xuống khỏi xe lam là mửa đến mật xanh mật vàng.
Em đã lớn, lên thăm bố em nhìn ra bố ngay từ phía tít xa. Và em xấu hổ khi chị nhắc lại chuyện lần đầu em gặp bố, em lại chỉ nhắm vào mấy bác có dáng người cao ráo, mà chẳng nhớ bố là ai.
Xuân sang, hè tới, thu đi, đông lại... Năm này nối tiếp năm kia, em lớn dần lên trong tình thương của mẹ và chị trong ngôi nhà vắng bố. Em đã biết sửa bóng đèn hư, không còn phải để mẹ hay chị lui cui bắt thang lên thay nữa. Vòi nước rỉ cũng tay em chỉnh lại. Dịp Tết đến, em nói với chị mua vôi về để em quét lại tường trong nhà, em quét vôi 4 bức tường đã đành, mà còn ráng ngẩng cổ sơn luôn cả trần nhà, nói với chị là mong bố được thả về ăn Tết với gia đình. Giao thừa đến và năm mới đến, bố vẫn bặt tăm. Chị đi xin xăm trên chùa, năm nào xăm cũng bảo là người đi xa vẫn chưa về, của mất vẫn chưa tìm thấy, riết rồi sau vài năm chuyện xin xăm chị cũng chẳng màng. Còn em thì năm nào cũng ráng quét vôi sơn cái phòng khách của nhà mình, mong bố về sum họp với gia đình nhân dịp đầu năm.
Vậy mà đến một năm nọ, bỗng có người quen với gia đình cũng có bố đi cải tạo bảo là có tin truyền miệng là sẽ có thả tù cải tạo ở ngay khám Chí Hòa ngày đó ngày đó. Chị với em đến ngồi đợi ở trước cửa khám ngay từ lúc trưa cùng với bao nhiêu người khác.
Cổng khám đóng kín, chẳng ai dám đến gần tay bộ đội cầm súng đi qua đi lại trước cửa khám để hỏi han cả. Chỉ ngồi chờ, kiên nhẫn chờ…
Trời chập choạng tối, cổng khám mới mở và một dòng người từ từ bước ra. Chị và em thay nhau tìm xem có bố hay không trong đoàn người đó. Nhìn suốt từ người đầu tiên đến người cuối cùng, không có ai giống bố hết. Chị muốn khóc, nhìn qua em thì thấy mặt em cũng méo xệch đi. Rồi bỗng nhiên chị thấy mắt em sáng lên, em kêu to "Bố kìa" rồi chạy đi.
Chị nhìn theo em, thấy bố đang bước ra khỏi khám Chí Hòa, dìu một người bạn tù khác. Hóa ra ông bạn của bố bị bệnh về mắt, thị giác rất kém, hầu như không còn thấy đường nữa. Em vẫy xe xích lô lại rồi phụ bố dìu ông bạn lên xe để về nhà người thân. Sau đó chị với em mới đi với bố về nhà, chị chở bố trên cái xe PC cà tàng của nhà mình, còn em lóc cóc đạp xe theo.
Mười hai năm trời, ngày bố đi em là chú bé tý hon còn đi chưa vững, giờ bố về em đã là một thiếu niên, vẫn còm nhom như cây sậy nhưng đạp xe nhanh hết biết, còn muốn nhanh hơn tốc độ cái xe PC chị đang chở bố đi.

Thời gian trôi qua, sau khi bố được thả ra vài năm thì nhà mình được đi Mỹ nhờ chương trình H.O., định cư ở Maryland. Cả nhà ở tạm trong cái basement của bà cô, em họ bố.
Em rời Việt Nam năm 18 tuổi, vốn liếng tiếng Anh góp nhặt được từ mỗi tuần vài giờ ở bảy năm trung học và vài lớp học thêm. Cả chị và em đều đi học ESL sau khi ghi danh vào college. Cả chị và em đều là khách hàng quen mặt của mấy trạm xe bus của county. Weekend bố mượn được chiếc xe hơi cũ của bà cô, mang ra bãi đậu xe của college tập cho hai chị em. Chỉ sau 2 weekends là em đậu bằng lái xe. Chị thì mãi hoài vẫn không pass cái parallel parking test, lần thì đụng ngã cây cờ làm dấu, lần thì đậu cách lề quá xa, police đưa cuốn sổ ra đo khoảng cách tới lề đường rồi kêu chị làm lại, chị xoay cái xe mãi vẫn không nhích nó vào sát lề hơn chút nào cả, lần nữa thì làm phần parallel parking trout lọt, đến lúc lái xe ra chị mừng quá lái sai hướng, vào ngay cái lối có bảng màu đỏ to tướng "Do not enter" lại rớt. Bố lắc đầu ngán ngẩm, nói là chắc phải tốn tiền cho chị đi học ở driving school thôi, chứ bố hết cách rồi. Chỉ có em là kiên nhẫn khuyên chị chờ đến hồi nhà mình dành dụm đủ tiền mua xe, em sẽ tập cho chị đến khi nào thi đậu bằng lái xe và lái được trên đường.
Trời mùa thu, mỗi sáng trời còn tối om đã có bóng 2 chị em mình đứng ngoài trạm bus, đi 2 chuyến bus mới tới được college. Cả chị với em đều ghi danh học mấy lớp sáng sớm, để sau đó còn dư giờ làm work study mà vẫn đón kịp chuyến xe bus cuối ban đêm về nhà. Món đồ đắt giá đầu tiên em mua sau khi làm work study là cái tape recoder để em thâu bài giảng trong lớp về nghe lại. Buổi tối xong bài vở em còn lôi mấy tờ báo ra xem, chữ nào không hiểu thì lại lúi húi tra tự điển. Trên lầu mấy đứa em họ cỡ tuổi em, con bà cô, buổi tối xong bài vở bật TV xem phim hay chơi game đến khuya, tụi nó lúc đầu còn rủ em tham dự, nhưng em bao giờ cũng nhã nhặn từ chối. Em nói với chị, mình qua Mỹ chậm hơn mấy đứa em họ của mình cả 10 năm, giờ phải làm sao bắt kịp tụi nó thôi, chị thấy có đúng không. Chị đồng ý với em lập tức.
Ngày đó, ngay cả TV mà hai chị em nhiều lúc còn không hiểu xướng ngôn viên nói gì, họ nói nhanh quá cỡ, chị em mình nghe chữ còn chữ mất, lắm lúc phải bật subtitle mới hiểu sơ sơ họ nói câu gì. Chị động viên em, và em khuyến khích chị, chuỗi ngày bỡ ngỡ xa lạ ở cái xứ Mỹ này bớt lạnh lẽo hơn và trôi qua nhanh hơn.
Làm work study một thời gian thì tụi bạn em quen trong college chỉ cho em một cái job khác: làm busboy ở một nhà hàng Việt Nam trong vùng, cách college vài trạm xe bus. Em đi gặp ông chủ nhà hàng và được nhận vào làm, với điều kiện là em tự sắm cho mình bộ đồ gốm áo sơ mi trắng, quần tây đen và cái nơ cổ màu đen. Quần áo thì em có, cái nơ kiếm ở đâu thì em chẳng biết. Em về hỏi chị, chị cũng ngẩn người ra, không dám hỏi mấy đứa em họ trên lầu vì tụi nó thật ra nói tiếng Việt không rành, còn em với chị thì tiếng Anh lại không thạo. Rồi chị bỗng nảy ra ý kiến là nếu tìm được tiệm bán đồ cưới thì chắc sẽ mua được cái nơ.


Hai chị em dò phonebook tìm Bridal store, rồi dò xem chuyến bus nào chạy ngang đó. Cái nơ đeo cổ màu đen nhỏ xíu mà giá đến 7 dollars, chị với em nhìn giá tiền cái nơ đen mà ngơ ngẩn, ngẩn ngơ. Mắc quá xá cỡ, vẫn còn thói quen tính chuyển đổi ra tiền Việt Nam, lại càng thấy mắc cắt cổ. Vậy mà vẫn phải mua!
Đêm đầu tiên em đi làm busboy, khuya thật khuya em mới về tới nhà, bố mẹ và chị, cả nhà vẫn còn thức để đợi em về. Em hào hứng khoe được đến 4 dollar tiền tip, lại còn được bà chủ cho ăn dĩa cơm sườn nướng bì chả trong bếp. Em có thằng bạn nhà ở gần đó cũng làm trong nhà hàng, hào hiệp cho em đi ké xe mỗi tối những ngày hai đứa làm chung. Vậy là bố khỏi mượn xe của cô để đi đón con ban đêm. Em nói chừng vào tháng nữa con dành dụm thì sẽ mua được chiếc xe thôi. Em nhìn chị cười, bảo là chừng đó em sẽ tập cho chị thi đậu bằng lái xe, chị em mình chia nhau lái xe, chị sẽ đỡ phải vất vả đi mấy chuyến bus đi làm như trước nữa. Bố mẹ và chị nhìn em, mắt mẹ ươn ướt. Thư sinh trói gà không chặt của mẹ mà bây giờ phải đi lau bàn, dọn chén dĩa ở nhà hàng, khuya lơ khuya lắc mới về nhà, mẹ xót là phải rồi. Chị nhìn em, chỉ mới vài tháng qua Mỹ mà em già dặn, chín chắn hẳn đi, từ dáng vóc đến tính tình.
Nhà mình dọn ra riêng. Là dân low income thì ở khu low income thôi. Chị đi làm về buổi tối, đi ngang qua chỗ đổ rác thì thấy ai đó bỏ 1 cái desk còn mới tinh. Vào nhà chị nói với em. Hai chị em đợi đến khuya mới len lén ra khiêng cái desk vào nhà, lúc đó mới phát hiện cái desk không phải làm bằng gỗ nhẹ tênh mà làm bằng kim loại nặng quá xá cỡ, có lẽ vậy mà dân hàng xóm không ai màng hết. Vả lại có ai mà thiếu đồ dùng như nhà mình đâu. Cả gia đình mình, lúc rời Việt Nam chỉ được mang theo có 20 ký lô hành lý mà thôi! Em không còn phải nằm bò ra sàn nhà hay ngồi ở bàn ăn trong bếp để học nữa. Cái desk đó thành chỗ học của em trong cả mấy năm trời ở college và university.
Rồi chị với em dành dụm đủ tiền mua cái xe hơi cũ. Có xe, em tình cờ đọc báo thấy nhà nọ cũng ở trong vòng có moving sale, 2 chị em tới xem thì mua được cái khung giường khổ twin size có 10 dollars. Hai chị em cột cái miếng ván lót giường vào nóc xe không kỹ, vừa chạy chút xíu là miếng ván lọt xuống đường gãy đôi, em với chị lượm lại mang về nhà, thành ra cái giường nhỏ em nằm ngủ suốt năm sáu năm ròng mỗi lần trở mình lại kêu cọt kẹt luôn luôn. Vậy chứ em vẫn gầy, mấy dĩa cơm sườn ở nhà hàng Việt nam không bù lại công sức em bỏ ra chạy bàn, dọn chén, thành ra lo té lọt đất khi vạt giường bị gãy là chuyện chẳng bao giờ xảy ra.
Có xe hơi, em giữ đúng lời hứa, kèm chị tận tình để chị đi thi. Em lấy cái can nhựa đựng sữa, cắm cây cọc vào giả làm cờ, vạch dấu, rồi tập chị làm parallel parking vào những ngày weekend trong parking của college. Em chỉ cho chị khi nào thì lui thẳng cái xe, lùi đến đâu thì bẻ tay lái đến đâu, khi nào thì quẹo, khi nào thì ngừng. Em đùa, bảo chị mà thi đậu xong chắc em mở lớp luyện thi cho mấy người thi mãi mà không đậu bằng lái xe, thế nào cũng có người tới học cho xem. Trời bắt đầu sang hè, nắng chói chang, em chỉ cho chị mà mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng trên mặt, ướt đẫm cả áo, chị ráng hết sức tập để mà thi đậu cho nhanh. Rồi chị thi đậu thật với kỷ lục sau 5 lần mới đậu, không hiểu có ai vượt hơn không. Em thấy chị cười tươi như hoa khi bước ra khỏi xe sau khi thi thì đoán ngay là chị pass. Hương vị cái tô phở 75 ngày đó hai chị em mình tự thưởng cho nhau còn vương vấn mãi trên đầu lưỡi chị không thôi.
Rồi chị chuyển trường, lên học ở một campus cách nhà cả 5,60 miles. Em thì vào học trong một university trong thủ đô. Chiều thứ sáu em không đi làm sau giờ học mà lái xe lên đón chị về với bố mẹ và em. Xe cộ kẹt dài dài từ thủ đô ra highway, từ highway vào thành phố nơi có dorm chị ở, em lái mấy tiếng đồng hồ mới lên tới campus của chị, rồi lại lái mấy tiếng đồng hồ mới về được tới nhà. Những lúc ngồi trên xe với em là lúc chị em mình kể cho nhau nghe chuyện học hành, chuyện việc làm. Cả tuần mới gặp nhau một lần, hai chị em có đủ chuyện trên trời dưới đất kể cho nhau nghe. Chị thuật cho em chuyện chị đi thực tập ở một pharmacy, ngày đầu vào tiệm ông pharmacist đã nói ngay là có một khẩu súng nạp đạn sẵn để dấu trong pharmacy, chị không được táy máy sờ đến. Ông còn cho hay là ông có một khẩu súng đeo trong người, người pharmacist làm partner của ông cũng vậy. Chỗ đó cách chỗ chị học có vài block, vậy mà đã coi bộ không an toàn rồi, chị nói em có lái xe rủi lạc exit cũng tránh khu đó đừng lái vào, nguy hiểm lắm. Em gật đầu bảo nhớ, rồi lại thuật lại cho chị chuyện được ông chủ nhà hàng cho ăn thịt nai. Tưởng special treat dành cho nhân viên nhà hàng nhân dịp gì đó, hóa ra không phải. Ông chủ nhà hàng lái xe ngoài highway gặp con nai bị xe hơi đụng chết nằm đó, thế là ông dừng lại, lượm chú nai mang về bếp của nhà hàng rồi xả thịt nấu lên cho toàn thể busboy và waiter ăn một chuyến. Chị hỏi em thịt nai có ngon không, em bảo cũng được. Tính em thương thú vật chị biết, con nai dễ thương như vậy thì em thấy nó nằm trong bếp, cặp mắt vẫn còn mở to như ngạc nhiên, ăn thịt nó quả không đành.
Rồi đến một năm nọ, trời bão tuyết cả mấy ngày liên tiếp. Chị nói với em đừng lái xe lên đón chị, đường trơn trợt khó lái và nguy hiểm lắm, vậy mà em vẫn ráng cùng với bố đợi đến lúc tuyết ngừng rơi lái xe lên đón chị về ăn Tết với gia đình. Lúc về gặp lại bão tuyết, tuyết rơi trắng xóa đất trời, che mờ cả kính xe, em phải lái chầm chậm từng chút cả một đoạn đường dài. Giữa mùa đông băng giá ở xứ người, nhưng cái Tết tha hương với chị vẫn ấm áp vô cùng, vì cả gia đình mình được sum họp, bố mẹ chị và em. Rồi chị và em sẽ tốt nghiệp, biết đâu sẽ đi tiểu bang khác làm việc, em nói vậy, dịp nào gia đình mình quây quần lại với nhau là có dịp đó, bão tuyết này không thể ngăn em lên đón chị về. Đường xá còn thông, xe cộ còn chạy, county còn dư muối rải đường thì lái xe trời tuyết chỉ phải cẩn thận hơn ngày thường nhiều hơn thôi.
Năm chị tốt nghiệp là năm em trúng tuyển vào đại học nha khoa. Chị tìm được Job ở gần nhà và move về sống với bố mẹ thì đến phiên em lại đi xa. Mẹ với chị đi ra đi vào ngang qua phòng của em, thấy cái giường em ngủ, cái bàn em học, nhớ em vô cùng.
Mẹ huấn luyện cho em cách mua thịt, mua rau, cách nấu vài món ăn đơn giản. Em đi học ngay Campus chị học ngày nào, weekend nào cũng ráng lái về nhà để thăm bố mẹ và chị đã đành, mà còn để ăn cơm Việt Nam mẹ nấu nữa. Mẹ thương con trai út của mẹ, đến khi em trở lại trường vào ngày chủ nhật thì còn mang được theo một lô thức ăn mẹ nấu để ăn dần trong suốt cả tuần.
Bây giờ em không còn cái tape recoder để thâu lại bài thầy cô giảng nữa. Sách vở em học cuốn nào cuốn nấy dầy cộm, chị nhìn vào thấy toàn từ chuyên môn chi chit, nhìn chóng cả mặt. Em thuật cho cả nhà nghe chuyện mỗi sinh viên được cho mượn một cái sọ người để học về cơ chế răng hàm mặt, em để cái sọ ở trong phòng dorm chứ không có mang về nhà. Rồi chuyện lớp chia làm nhiều nhóm, một nhóm 6 đứa thực tập trên một cái xác người, khuôn mặt người chết được băng kín đến học kỳ 2 mới mở ra để học về thần kinh mặt, mỗi nhóm phải cắt xẻ cái xác như là tụi sinh viên y khoa vậy.
Em kể tỉnh bơ, chị nhìn em nói chuyện, không còn dấu vết gì của chú bé ngày xưa mỗi lần nghe trời gầm, sét đánh là òa khóc, trèo lên giường núp vào mớ mền gối chị xây cao như cái nhà nhỏ để bảo vệ em. Em đã là người lớn rồi nhưng với chị và mẹ, em vẫn là chú bé út cưng của cả nhà thôi.
Hết chuyện học trong giảng đường, em lại kể sang chuyện thực tập. Lần đầu tiên chỉ làm có một cái răng bằng sáp gắn vào một hàm răng giả mà em làm tới làm lui cả mấy lần mới coi được, chị nhìn cái răng sáp màu đỏ giống như y một hạt bắp to tướng vậy, mà không dám nói ra sợ em buồn. Rồi chị thắc mắc, không hiểu sao trường có thể đào tạo trong 4 năm từ mấy em bé gà mờ như em mà thành nha sĩ cho được nữa! Hóa ra trường có kỷ luật gắt gao, quy chế thực tập đâu ra đó rất ư là quy củ, nề nếp. Em kể về một bà cô chỉ có một trọng trách là đi vòng vòng trong giờ thực tập, xem sinh viên có thực hành đúng thao tác hay không, nếu làm động tác nào sai là bị khẻ tay và nhắc nhở ngay lập tức. Mẹ hỏi em bao nhiêu lần bị khẻ tay rồi, em cười cười, bảo là không tiết lộ được, và rồi thú thật là nội công của bà cô thâm hậu lắm, đứa nào lầm lỗi bị khẻ tay đau điếng là nhớ đời luôn!
Rồi cũng có ngày em được thực tập trên người thật. Bệnh nhân đa số là dân ở các vùng lân cận trường. Ghi tên làm răng ở tại đại học nha khoa thì đảm bảo là sẽ được làm kỹ lưỡng, chu đáo, vật liệu làm răng tốt, mà giá tiền lại rất ư là phải chăng, nhất là với người không có thu nhập cao, không có dental insurance gì cả. Trước khi bắt tay vào làm thì sinh viên phải đưa cho giáo sư xem một cái treatment plan, thầy gật đầu đồng ý thì trò mới thực hiện.
Vậy là em có dịp thực hành những gì đã học, trám răng, nhổ răng, làm root canal, làm crown…. Bệnh nhân của em gồm đủ mọi thành phần, từ những cụ già đến nhổ cả hàm răng để làm răng giả, những người bệnh tâm thần nhẹ ở khu nhà thương gần bên đến trám răng sâu, đến những em bé mới ngồi vào ghế làm răng là khóc la um sùm, dỗ nín để há miệng ra cho nha sĩ khám là cả một nghệ thuật mà em phải phát hiện và áp dụng.
Ngày nọ, có một cô sinh viên trong lớp em vất vả khôn cùng mới nhổ được 1 cái răng của một ông cụ. Lúc ông thầy tạt qua kiểm tra thì ôi thôi, cái răng cô bé nhổ ra thì chỉ là hàng xóm láng giềng của cái răng hư! Trường phải mất thời gian và cả tiền bạc để giải quyết ổn thỏa cái case nhổ răng không trúng của học trò. Em về nhà, thuật lại chuyện đó, rồi nói với chị và bố mẹ nhớ hoài vụ này, mỗi lần làm gì là lại kiểm tra cẩn thận lắm rồi mới bắt tay thực hiện, sau này nghe chuyện đó, chị với mẹ không còn đùa gọi em là nha sĩ "nhổ răng không đau" nữa.
Ngày em ra trường, mẹ và chị lên dự lễ tốt nghiệp của em, em giới thiệu với cả nhà 1 cô bé Việt Nam nhỏ nhắn cười có lúm đồng tiền ngày xưa cùng học college với em, bây giờ đang học ở trường dược kế bên. Người ta bảo đại đăng khoa rồi tiểu đăng khoa, chị hỏi nhỏ em xem hai đứa có plan gì cho tương lai chưa, thì em bảo là "Thiên cơ bất khả lậu" làm chị cũng tròn mắt ngạc nhiên, không hiểu sao em lại biết câu này nữa. Em nói với chị ở Mỹ học tiếng Mỹ, chứ em đâu có quên trau dồi tiếng Việt, chị ơi.
Chị ngồi ở dưới nhìn em lên lãnh bằng tốt nghiệp, cái áo thun màu đen có 3 sọc tim tím, cái nón có tua vàng rủ xuống ở một bên, mà xúc động bàng hoàng. Mười năm rồi đó, ngày nhà mình bước xuống sân bay New York, đến bây giờ là cả một đoạn đường dài. Ở cái xứ sở này, giữa những người không cùng màu da, cùng ngôn ngữ, chị em mình đã cố gắng hết sức mình để vươn lên làm lại cuộc đời. Ở đây người ta không xét xem bố mẹ làm nghề gì khi em nộp đơn vào đại học, khi em đi interview ở trường nha. Tất cả là điểm số của em, mồ hôi công sức và thành quả của em.
Rồi đến lúc em đi thi lấy license hành nghề. Phần lý thuyết thi không khó, phần thực hành mới gian nan. Em phải thực hành trên một số bệnh nhân thật, mỗi trường hợp đều phải chụp Xray cái răng sẽ làm gởi đi trước để duyệt. Một ông cụ em chữa răng cho trên Campus hào hiệp nhận làm bệnh nhân cho em, bỗng gần đến ngày em đi thi thì bị heart attack nhẹ phải vào bệnh viện. Em cũng có chuẩn bị plan B, bố mẹ và chị tình nguyện đi làm bệnh nhân cho em, nhưng em nói vạn bất đắc dĩ lắm em mới nhờ đến bố, vì răng bố đã chịu ảnh hưởng rất nhiều của những năm tháng lao khổ trong tù.
Tối trước khi em đi thi thì nhận được điện thoại của ông cụ bệnh nhân quen, ông cụ đã xuất hiện và kiên quyết đi giúp em cho bằng được. Về sau chị mới hay sáng hôm sau ông cụ đích thân lái xe đi, rồi lái lạc exit chạy vòng vòng một hồi mới đến được chỗ em thi. Hôm đó chị và bố mẹ thấy em bình tĩnh vô cùng, sau khi thi đậu xong em mới thú thật là khi gần đến giờ mà chưa thấy ông cụ đâu, em sợ ông cụ lại bị heart attack giữa đường thì khốn, cứ áy náy trong lòng mãi vì đã không chịu đi đón ông cụ tại nhà mà để cụ lái xe đi.
Em ra trường, có việc làm. Từ trước tới giờ, chị không bao giờ có dịp làm bệnh nhân của em, giờ thì có dịp để kiểm tra xem nha sĩ của gia đình có mát tay hay không. Ngày nọ, chị lấy hẹn đến chỗ em làm. Cô receptionist bảo chị là chút nữa, doctor Nguyễn sẽ làm răng cho chị. Con bé da trắng tóc vàng mà nói chữ Nguyễn nghe rõ mồn một, làm chị ngạc nhiên hết sức.
Vào gặp em, vừa ngồi xuống ghế làm răng là chị tò mò hỏi em ngay, sao con bé receptionist nói chữ Nguyễn giỏi thế. Em lúc đó cười quá chừng chừng, nói với chị là phải mất nhiều công sức lắm mới chỉ cho con bé nói được chữ đó. Vùng này Việt Nam cũng đông, tới phòng khám nha khoa này cũng nhiều ai mà lại không thích khi phát âm mấy cái last name phổ biến của Việt Nam. Em cũng tự hào về cái họ Nguyễn của mình và muốn người khác gọi cho đúng thì phải chỉ cho họ thôi.
Rồi cô bé Việt Nam cười có lúm đồng tiền năm sau đó ra trường. Rồi bố mẹ, chị và em mang trầu cau và chú heo quay qua nhà cô bé làm đám hỏi. Rồi năm sau nữa là đám cưới. Rồi vợ chồng em mua nhà. Em ở xa, nhưng vợ chồng em thường xuyên gọi điện thoại thăm bố mẹ và chị. Và bây giờ em gọi điện thoại cho cả nhà hay năm sau nữa vợ chồng em sẽ có con, theo ultrasound thì sẽ là một chú bé con. Em cao hứng vẽ vời chuyện tương lai, khi chú bé lớn lên, em và con trai sẽ cùng chơi ping pong, cùng chơi bóng đá, cùng đi coi soccer ở sân vận động, bao nhiêu là mơ ước.
Chú bé của chị, chàng thư sinh trói gà không chặt của mẹ, giờ thật sự trở thành người đàn ông gánh vác việc nhà rồi.

Karen N. Nguyễn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,300,908
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo
Giải Thưởng Việt Báo Việt Báo