Hôm nay,  

Tình Quê Nhà, Tình Quê Người

30/08/200100:00:00(Xem: 159209)
Bài tham dự số: 02-339-vb80902


Trong tất cả chúng ta ai ai cũng có những mối tình: tình nhân loại; Tình yêu quê hương đất nước; Tình nghĩa ông bà cha mẹ; Tình làng nghĩa xóm, và tình yêu đôi lứa vv... nhưng ở đây tôi chỉ nói đến hai thứ tình mà chính bản thân tôi đã ít nhiều trải qua, khi còn ở quê nhà và khi sang nước Mỹ. Đó là “tình làng nghĩa xóm và tình yêu đôi lứa”.
Nhớ khi tôi còn bé, mỗi khi có ông Năm, bà Bảy người hàng xóm sang chơi là tôi chạy vọt ra nhà sau nấu nước, pha trà bưng lên để mời ba mẹ tôi và họ cùng ngồi uống để mà tâm sự. Hoặc đôi khi tôi chạy sang nhà người hàng xóm mượn một vài muỗng mỡ, một vái tép hành hoặc một trái chanh.....Những thứ ấy không có giá trị gì về vật chất nhưng chất chứa một tình cảm dạt dào của người láng giềng, hàng xóm.
Tại quê tôi, khi chuyện chẳng may mà người hàng xóm có ai chết đi, thì bao nhiêu người khác vội vã bỏ cả những việc riêng tư để cùng nhau lo cho người quá cố. Người thì đốn cây lo dựng liều, trại. Người thì lo khuân vác bàn ghế, chén tô vv... Rồi thì họ thức trắng đêm để chia xẻ nổi mất mát, đớn đau của người gia chủ có người thân vừa khuất. Để rồi tiển đưa người nằm xuống đến nơi an nghỉ cuối cùng. Tình nghĩa láng giềng sao thân thương quá! Đúng với câu: “Bà con không qua láng giềng gần” hoặc “mỗi khi đốt lửa tắt đèn có nhau”. Đó là cái nghĩa cái tình của người chòm xóm ở quê nhà.
Còn quê người thì sao" Khi đã nói đến quê người thì tôi đã thuộc nằm lòng với câu mà các bậc tiền nhân đã dạy: “Nhập gia tùy tục, đáo giang thì khúc”. Dẫu biết thế nhưng vẫn khó tránh khỏiù một chút ngậm ngùi về tình hàng xóm nơi xứ lạ.
Nhà tôi kế cận và song song với nhà của đôi vợ chồng Mỹ, chỉ cách nhau một bức tường xi- măng với độ cao vừa khỏi tầm nhìn. Mỗi ngày tôi vẫn thường nghe họ nói chuyện với nhau, nghe cả âm thanh của ti vi, nghe cả tiếng khua ken kẽn mỗi khi họ xào nấu... vậy mà gần tám năm trời sống ở nơi này tôi chưa bao giờ biết mặt họ hoặc hầu chuyện với họ dù chỉ một lần. Đó là người láng giềng bên cạnh.
Với người láng giềng trước cửa nhà tôi thì cũng chẳng khác là bao. Bà ta cũng là người Mỹ, sống một mình trong căn nhà, còn chồng và con thì tôi chưa bao giờ thấy họ. Nếu tôi có đi đâu hay về thì phải chạy xe cặp hông nhà bà một đoạn ngắn là đến nhà tôi (vì trên một lô đất 3 căn, tôi ở căn sau cùng). Với bà ta, tôi đã nhiều lần gặp mặt, đôi khi dip trùng dịp mà tôi và bà ấy đi lấy thơ cùng một lúc. Thấy bà tôi đã chuẩn bị sẵn trong thâm tâm là muốn nói chuyện một vài câu như hỏi thăm về sức khỏe, công việc làm hoặc vài chuyện linh tinh khác. Tôi chào bà ta, bà ta chào tôi bằng tiếng “Hi” rồi người láng giềng của tôi âm thầm với những bước chân lạnh nhạt đi vào nhà để một mình tôi ngớ ngẩn chưa kịp hỏi một câu. Trên môi tôi nụ cười xã giao vẫn còn đó, nhưng trong lòng tôi sao khỏi ngậm ngùi và một chút suy tư của người láng giềng nơi xứ lạ.


Tình làng nghĩa xóm là vậy đó! Còn tình yêu đôi lứa thì sao" Cách đây không lâu bản thân tôi và bao nhiêu người khác khi còn ở Việt Nam cũng có những mối tình quê. Tình nghèo chỉ chở người yêu bằng xe đạp cũ mà tôi cố chùi cho sáng, cho bóng mỗi khi có dịp để đưa nàng đi ăn chè, ăn kem vào những ngày Tết cổ truyền hay lễ hội. Nhưng chẳng bao giờ dám ngừng xe kế cạnh nhà nàng, sợ cha mẹ nàng bắt gặp thì làm sao tránh khỏi những lời quở trách.
Ơû Việt Nam người lớn thường hay dễ dãi vào dịp Tết để con cháu vui xuân. Chỉ có dịp ấy là mới dám đến nhà nàng, đến mà chân cẳng thì còn run còn tim thì đập liên hồi. Đến để chào hỏi gia đình, một vài câu chúc tết mà ấp a ấp úng rồi tìm cách rút lui, sợ cha mẹ nàng chất vấn mà tôi miệng chẳng thành lời. Những mối tình quê tuy nghèo nhưng giàu lòng thương cảm. Tuy mộc mạc đơn sơ nhưng thấm đượm tình nồng.
Sang bên Mỹ rồi, cuộc sống hoàn toàn khác hẳn. Đây là nước Mỹ văn minh, mọi thứ di chuyển với một vận tốc nhanh tới chóng mặt. Đây là đất nước có một không hai trên quả địa cầu này, một nước mà biết bao con người hằng mơ ước được đặt chân tới dù chỉ một lần. Đi đôi với sự văn minh đó, cũng nảy sinh những mối tình văn minh, những mối tình chớp nhoáng những mối tình “Yêu nhau buổi sáng, buổi chiều xa nhau.”
Họ đến nhà người yêu một cách ung dung và tự tin và không chút gì sợ sệt, e dè không giống như tôi hay bao nhiêu người khác khi còn sống ở quê nhà. Khi họ đến và nếu gặp người yêu ba mẹ họ dùng một tiếng chào bằng chữ “Hi” mặc dù họ rất rành tiếng Việt và thừa khả năng để nói “Chào hai bác con mới đến chơi”. Thế rồi họ nói cười hỉ hả khi có tiệc tùng hoặc họ đến nói năm ba câu gì đó rồi “bye” để dìu nhau lên những chiếc xe hơi đời cũ, mới phóng vù đi mất. Họ chẳng bao giờ hay biết sau khi họ đi để lại những cái tặc lưỡi, lắc đầu của hai đấng sinh thành và người thân. Nhưng người ở lại chẳng ai nói với ai một lời nào vì nhớ lại câu “Đáo giang tùy khúc”.
Nhưng tôi vẫn tin và tin nhiều hơn nữa ỡ mọi chốn, mọi nơi, cho dù là ở thành phố lấp lánh ánh đèn, náo nhiệt xe cộ, hay những vùng xa xôi, hẻo lánh ở miền quê. Người Việt tha hương sẽ có những người láng giềng tốt bụng, tương trợ với nhau khi có hữu sự, tâm sự với nhau những chuyện buồn vui trong cuộc sống sau những tháng ngày làm việc mệt nhọc ở xứ người.
Tôi cũng ước mong những đôi uyên ương gốc Việt sẽ thừa khả năng để làm trọn chữ hiếu, vẹn chữ tình, cùng nắm tay nhau vun đắp cho tương lai, cho thế hệ mai sau.
Những ý nghĩa nông cạn của riêng bản thân tôi trên đây rất xưa, rất cũ, có lẽ không thích hợp với nhịp sống văn minh ở một nước mà tôi đã và đang sống. Nhưng tôi là người Việt Nam da vàng, mũi tẹt, sinh ra và lớn lên trên đất mẹ. Cho dù có sống ở một phương trời xa lạ, tôi có gìn giữ một chút gì đó cho quê hương.
Mai kia khi lưng còng, gối mỏi, những ai đó và tôi ước mơ được trở về chốn cũ, để tìm lại cái tình dù là “Tình làng nghĩa xóm” mà đã thiếu vắng nó từ bấy lâu nay. Tôi thực lòng mong ở quê hương xa xôi kia, thứ tình ấm ấy còn được gìn giữ mãi. Vào tuổi về chiều của quãng đời còn lại, tôi thấy thật là ấm lòng nếu mình được sống lại với thứ tình nghĩa ấy.

HUỲNH HỮU PHƯỚC

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,318,756
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến