Hoa Kỳ là Thiên Đàng, là đất hứa biết bao người ước mơ. Riêng hoàn cảnh chúng tôi, nếu biết phải trả một giá quá đắt như tôi đã phải trả, thì chắcchúng tôi đã không đi.
Gia đình tôi gồm hai vợ chồng và đứa con gái nhỏ từ miền Trung vào miền Nam lập nghiệp. Cả hai vợ chồng đều không có cha mẹ. Vì lập gia đình rất sớm, nên năm tôi 17 tuổi đã sinh được một cháu gái.
Xuôi Nam, chúng tôi sống trong một khu xóm nghèo thuộc tỉnh Sông Bé. Chồng tôi xin được vào làm trong một công ty chế biến thực phẩm, tôi thì bán hàng rong nuôi con. Năm con gái tôi được 12 tuổi thì chồng tôi chết trong một tai nạn, và từ đó gánh nặng gia đình chỉ còn một mình tôi xoay xở buôn bán nuôi con.
Trong những người quen hay đến thăm chúng tôi, có một thanh niên trẻ hơn tôi khoảng 10 tuổi, làm chung một công ty với chồng tôi. Ngày chồng tôi còn sống anh ta vẫn thỉnh thoảng đến nhà tôi và đôi lúc ở lại ăn cơm thân thiết như người trong nhà. Cũng có nhiều lần tôi chợt bắt gặp ánh mắt của người ấy ngừng lại nơi tôi. Những lần như thế tôi thường lại ngồi bên chồng tôi bỏ mặc con gái tôi và anh chàngï tâm sự.
Sau khi chồng tôi mất, người thanh niên ấy vẫn lui tới thăm hỏi và giúp đỡ chúng tôi. Khi con gái tôi 16 tuổi, nhận thấy nó quyến luyến chàng trai trẻ ấy, tôi gả con tôi cho anh ta. Hoàn cảnh riêng của anh ta cũng mồ côi cha me, phải ở với người chị và anh rể, nên sau khi lấy con gái tôi, anh ta dọn về ở với mẹ con tôi. Từ đó trong mâm cơm đơn chiếc có thêm người con rể, không khí trong nhà ấm áp hơn.
Hơn một năm sau con rể tôi làm quen được với một người có tàu đang toan tính chuyện vượt biên. Thế là chúng tôi ôm mộng đi tìm miền đất hứa. Nhờ người chủ tàu tốt bụng giúp đơ,õ mẹ con tôi lên tầu. Nhóm vượt biển gồm 21 người trên một chiếc tàu nhỏ ra đi từ Sông Bé.
Không may cho chúng tôi tàu chạy được một ngày, tàu ra biển lớn thì gặp bọn hải tặc. Tàu của bọn chúng rất mạnh, áp sát vào tàu chúng tôi giả bộ cho thêm nước uống. Chúng nói thứ ngôn ngữ mà chúng tôi không hiểu. Sau đó chúng nhảy tràn sang tàu chúng tôi. Trên tay chúng là giao và búa chúng rất hung hãn và thô bạo, chúng chém những người đàn ông trên tàu, ai nhảy kịp xuống nước thì thoát ai không nhảy kịp thì chúng chém chết.
Sau hồi đập phá lục soát chúng bắt đầu hãm hiếp số phụ nữø trên tàu. Chúng tôi bị bọn chúng đè ra ngay trên sàn tàu, xé nát quần áo và hãm hiếp man rợ. Trên tàu a có tất cả 6 người đàn bà, mỗi người bị hai ba tên đhải tặc hành hạ. Vì phản ứng tự nhiên tôi đã cắn và đạp chúng nên bị chúng đánh vào đầu rất nặng và ngất đi. Nhiều người đàn ông đã bị chém chết, con rể tôi cũng bị thương và nhảy xuống nước bám vào bẹ đuôi tàu.
Sau khi đã thả cửa giết chóc, hãm hiếp, bọn hải tặc rút đi, bắt theo mấy người đàn bà trong đó có con gái tôi.
Khi tôi tỉnh lại thì thấy mình mẩy trần truồng đau đớn ê ẩm không thể ngồi dậy được. Những người sống sót nhờ bám vào bẹ mạn tàu sau buồng lái, và chúng tôi kinh hoàng nhìn chiếc tàu tan nát và mấy xác người trong đó có người chủ tàu. Người con rể tôi đã lấy quần áo khác mặc cho tôi và chúng tôi đành nằm chờ chết vì con tàu không khởi động được. Sau đó nhờ ý kiến của một người trên tàu chúng tôi đốt lửa và cuối cùng được tàu đánh cá của dân địa phương cứu vớt và đưa chúng tôi vào đảo. Chúng tôi dìu dắt nhau lên đảo vào trại tỵ nạn như những cái xác không hồn. Bản thân tôi lúc đó chỉ còn là một thân xác tả tơi chết đi sống lại nhiều lần.
Những đồng bào trên đảo tị nạn nhìn chúng tôi bằng ánh mắt thương cảm. Nhiều người đã giúp đỡ chúng tôi, nhưng cũng có những người buông những câu rất nhẫn tâm, bẩn thỉu. Tôi cố gượng cúi mặt trước những ánh mắt soi mói ấy.
Sau khi vào trại, tôi được đưa đi bệnh viện cách trại tỵ nạn vài chục cây số. Hơn một tuần lễ sau tôi tạm bớt và được xuất viện trở về trại.
Tôi sót con, sót cho thân mình, vật vã khóc than mãi. Trong hoàn cảnh đó chỉ còn duy nhất người con rể là chỗ nương tựa cho tôi.
Mẹ vợ, chàng rể sống tạm trong căn lều tre làm bằng mấy ván gỗ vụn và mấy cây tre chặt trên núi, mà người ở trước đã cho chúng tôi trước khi lên đường đi định cư. Ngày ngày con rể tôi phụ người ta làm đủ thứ, từ làm nhà bán cho mấy người mới tới và đi săn cá đổi thức ăn và kiếm tiền để mua vật dụng cần dùng, và cả mua thuốc cho tôi. Một thời gian sau tôi đã tỉnh táo và đi lại được, tôi làm những việc lặt vặt nấu cơm giặt áo quần nên đầu óc cũng bớt đi nỗi đau buồn.
Từ đó, chúng tôi sống như vợ chồng cho đến nay đã mười bốn năm, có được 2 cháu một trai, một gái.
Đó là cái giá mà chúng tôi đã trả để đến được miền đất hứa này. Dù sao, chúng tôi đã đến được. Chúng tôi cám ơn chính phủ Mỹ đã đón nhận chúng tôi.
Mỗi đời người có một hoàn cảnh, một số phận khác nhau. Phải là người trong hoàn cảnh đó mới thấu hiểu được những việc xảy ra trong đời người đôi khi không thể cưỡng lại được. Phải chăng đó là định mệnh!
Tôi hằng nhớ tới đứa con gái xấu số của tôi.
*
Con yêu dấu của mẹ! Con dù còn sống hay đã chết, ở một phương nào đó hãy cảm thông và tha thứ cho mẹ, bởi số kiếp mẹ con ta chỉ có ngần ấy, bởi mẹ cũng chỉ là người đàn bà tầm thường, bởi trong hoàn cảnh bơ vơ ấy, mẹ chỉ còn biết nương tựa và gá nghĩa với chồng của con .
Trong tâm tưởng, mẹ và chồng con luôn nghĩ đến con. Mẹ sống đây tuy hạnh phúc nhưng là thứ hạnh phúc đổi bằng biết bao kinh hoàng, nhục nhã của kiếp người!
Con ơi,
“Mẹ đâu có ý sang ngang
Nhưng mà thôi, đã lỡ làng rồi con”
ĐỖ THỊ QUÊ HƯƠNG