Hôm nay,  

Kể Chuyện Hoa Kỳ

05/06/200100:00:00(Xem: 188818)
Bài tham dự số: 02-264-vb0606

“Viết về nước Mỹ” là đề tựa mà cũng có thể là chủ điểm của một cuộc tập họp văn chương tài tử. Tôi suy nghĩ mông lung về bốn chữ đó. Khi còn nhỏ và ngay cả đến bây giờ, tôi cảm thấy như có cái gì không ổn khi nghe ai dùng chữ AN-NAM thay vì VIỆT- NAM của mình trong câu chuyện hay vấn đề nào đó.
Với suy tư như vậy, dùng “Viết về nước Hoa Kỳ” có lẽ ổn hơn. Vả lại, Châu Mỹ gồm nhiều nước chứ không phải chỉ có một nước Mỹ. Tôi cũng nghĩ, dùng chữ “Hoa Kỳ” có vẻ lịch sự hơn khi đề cập đến nơi chốn mà tôi “Xin nhận nơi này làm quê hương” (1) thứ hai.

Có làm người tỵ nạn hay ở đảo mới thấu hiểu nỗi bơ vơ, lo sợ của con người không có tổ quốc, không được luật pháp nào bảo vệ. Nay có cả hai thứ đó, dù là thứ vay mượn tạm nợ, tôi nghĩ có còn hơn không và nên ăn ở làm sao cho phải.
Tôi để ý hai chữ HOA KỲ từ hồi mới là học trò lớp nhứt ở quê nhà với bài địa lý về các cường quốc trên thế giới. Được cho là một nước giàu có, hùng mạnh tôi nghĩ thêm là người Hoa Kỳ có giống người mình không và họ ăn ở ra sao"
Rồi tôi học Anh văn khi đến tuổi học sinh và lấy làm lạ khi biết người Hoa Kỳ nói tiếng Anh, có một lịch sử ngắn ngủi và dân cư đặc biệt. Từ đó tôi biết Hoa Kỳ nhiều hơn qua sách vở, phim ảnh... Sách vở thì có Let’s Learn English, English for Today, Practice Your English, La Vie En Amerique... Rồi thì phim tình cảm, cao bồi, chiến tranh từ Hollywood nổ tung màn bạc như đã được quảng cáo.
Cụ thể hơn là sự hiện diện của trên 500.000 quân nhân và dân sự Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam. Theo đó xã hội Việt Nam đã bị xáo trộn phát xuất từ sự khác biệt văn hóa và cái thực tiển không khiêm tốn của kẻ mạnh thế, giàu tiền, làm tôi đặt nhiều câu hỏi nơi nước Hoa Kỳ. Dù với tâm trạng đó, tôi vẫn muốn được đi Hoa Kỳ cho biết.
Cuộc đời tuần tự tiếp nối và đi Hoa Kỳ chỉ còn là mộng ước vì đặc ân này tôi không đủ điều kiện với tới. Biến cố 1975 đến thật không ngờ. Trôi theo dòng của cuộc đổi đời kỳ cục, từ cải tạo rồi trở lại cuộc sống của cái kiếp công dân hạng nhì, cho tới vượt biên và sau cùng đến được Hoa Kỳ mà trên tay không có giấy thông hành hay nhập cảnh để trình bày. Có chăng chỉ là một hồ sơ tị nạn Cộng Sản.
Chuyện tưởng như mơ nhưng là thật và thấm được câu nói của người bản xứ ở đây là “dream comes true”. Cám ơn nước Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác đã mở rộng vòng tay đón nhận người tị nạn Việt Nam định cư, cũng như phải cám ơn Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc (U.N.H.C.R) và các lân bang Đông Nam Á đã cưu mang họ trong bước đầu.
Nhớ lại lúc gò lưng kiếm sống ở Saigon, thấy dân đoàn tụ đi Hoa Kỳ mà chỉ biết mơ ước. Bây giờ đến được rồi thì phải làm sao đây"
Tôi biết từ nay, tại xứ sở này, tôi sẽ tìm được sự tự do mà tôi mong ước và trút bỏ được nổi lo sợ có thể bị bắt bất cứ lúc nào, luôn luôn ám ảnh tôi khi còn ở Việt Nam.
Như những người mới đến khác, tôi không tránh được hoang mang, ngơ ngáo khi đứng trước sự lớn mạnh và tân tiến của một nước phát triển.
Lúc còn ở trại tỵ nạn, tôi có dịp tự ví mình như cây chuối con được bứng trồng trong chậu, đi lưu lạc chờ hạ thổ. Với một ít đất Việt Nam trong chậu, còn hít thở khí hậu lân bang Đông Nam Á, cây chuối tạm sống. Giờ đây, khi được định cư tại Hoa Kỳ là lúc cây chuối con phải ra khỏi chậu và đem trồng trên một vùng đất vô cùng xa lạ, sống chết không biết ra sao chớ đừng nói chi nhảy con, trổ buồng!
Vịn vào thuyết tiến hóa của Darwin, lòng tin tưởng chuối con sẽ bén rễ và biến đổi thích ứng với xứ sở mới để sống còn và phải sống còn.


Bao nhiêu là cái xa lạ trước mắt: Xứ sở gì mà rau đắt hơn thịt, thực phẩm đầy đủ mà nhiều người không dám ăn không phải vì không có tiền, súng ống khắp nơi, làm Cộng Sản mà không bị bắt, trong thành phố mà xe chạy 60-70 cây số một giờ, đi bộ ẩu cũng phải ra tòa hay chịu nộp phạt, có học trò rồi mới có thầy, người lớn sống nhờ nít nhỏ, tương quan giữa cha mẹ và con cái là tương quan giữa người với người, trong khi đàn ông có vị trí rất khiêm nhường, lại còn nghe nói cảnh ngộ khóc con chó cưng bị chết, còn chồng chết thì êm rơ... Than ôi! chưa là đảo lộn, ngược ngạo nhưng cũng đủ cho thấy phải lưu tâm quan sát, bắt chước, học hỏi rất nhiều để hội nhập.
Bên cạnh sự dẫn dắt quý báu của những người đến trước, mọi hiểu biết và kinh nghiệm, ngoài việc tìm tòi, học hỏi, tôi còn phải mua nó bằng thời gian, sức lực, tâm trí, tiền bạc, và đôi khi bằng cả sự nhịn nhục nữa. Tôi xin ghi lòng tạc dạ những ân nhân đã giúp đỡ tôi sống còn đến ngày hôm nay.
Từ khắp nơi, mọi người đến Hoa Kỳ đều mang theo mình ít nhiều mục đích và ý nguyện. Dù với mục đích hay ý nguyện nào, phải sống xứng đáng với nơi chứa chấp mình. Với tôi, đó là cái sống lương thiện và nếu có dịp thì nên đền đáp những ơn nghĩa mà mình đã và đang được hưởng.
Sống lương thiện ở Hoa Kỳ gồm cả việc dạy dỗ con cái. Ở đây, nhà trường chỉ trau giồi trí dục, mặt đạo đức và công dân giáo dục là bổn phận của gia đình, nhất là của cha mẹ. Bên cạnh những thành đạt đầy vinh dự của con em Việt Nam, thật là đau xót và mất mát khi có con em Việt Nam hư hỏng trong xã hội Hoa Kỳ.
Có thể nói, chỉ mới ở đây 25 năm thôi, mà đã có những đứa trẻ Việt Nam hư hỏng như những đứa trẻ Hoa Kỳ có lịch sử trên 200 năm! Phụ giúp xã hội nuôi dạy con cái nên người hữu ích âu cũng là một cách trả ơn vậy.
Trong khi đó, về mặt tinh thần, tôi chưa biết phải làm sao để món nợ “Cơm cha, áo mẹ, công thầy” cũng như cảm thấy còn làm thiếu, làm chưa đủ một cái gì khi chưa tìm được câu trả lời cho câu hỏi “Why are you here” mà người bản xứ thường nêu ra khi có sự kiện hay biến cố ồn ào trong cộng đồng Việt Nam “Tại sao bạn ở đây"” Câu hỏi này xin dành chung cho thế hệ thứ nhất của tôi và mong mỏi các thế hệ kế tiếp ghi nhớ.
Để trả lời được câu hỏi này, chúng ta phải có những suy nghĩ và hành động không làm phương hại đến chính nghĩa của người tỵ nạn và không làm mất niềm tin nơi quốc gia đã đón nhận chúng ta.
Riêng tôi nghĩ câu hỏi này, trên phương diện nào đó, cũng đặt ra cho các giới chức Hoa Kỳ nữa. Có lẽ người Hoa Kỳ đã có câu trả lời khi họ chứa chấp chúng ta và nhận thấy sự hy sinh của 58,000 công dân của họ trong chiến tranh Việt Nam không phải là vô ích.
Cũng qua cuộc chiến tranh này, Hoa Kỳ một thành phần của Âu Tây, đã tiếp xúc và cọ sát với Đông Phương. Những kinh nghiệm từ đó cùng với sự tăng nhanh của di dân Á Châu, trong đó có Việt Nam, đã ảnh hưởng ít nhiều đến xã hội Hoa Kỳ. Hy vọng rằng ảnh hưởng đó sẽ xen lẫn trong đời sống của một quốc gia hợp chủng, làm giảm đi phần nào sự khác biệt của văn hóa.
Ở đây, vào ngày cuối tuần, vẫn còn có người đi nhà thờ, nhà nguyện, chùa, đền, thánh thất...vẫn còn có người làm công tác thiện nguyện, vẫn còn ngày lễ tạ ơn, vẫn còn ngày cho cha, ngày cho mẹ và vẫn còn July 4th... thì dù cho học trò có đem súng bắn trong trường học, Hoa Kỳ vẫn tồn tại và cũng vẫn có thể dùng làm nơi gương tựa được. Tôi xin được nương tựa nơi đây để chờ ngày hồi sinh quê hương Việt Nam mà tôi tin chắc sẽ có và phải có.

Thank You, America.
California 03/2001

(1) Tựa đề một cuốn phim Việt Nam trước 1975.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,329,388
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến