Hôm nay,  

Còn Chút Gì Để Nhớ

12/05/200100:00:00(Xem: 152812)
Bài tham dự số: 02-242-vb0512

Đặt chân trên đất Mỹ trong những ngày lập thu cuả tháng chín, khi khí trời mát dịu hòa lẫn với lá thu vàng lác đác trên phố vắng thênh thang.
Ngôi nhà buồn tẻ nằm gọn trong khu phố êm đềm quên thức giấc. Ngừơi đàn bà đó, ngồi ủ rũ bên khung cửa đã sờn bạc. Bà hầm hực bước lên lầu khi chúng tôi tươi cười vào nhà. Tiếng cửa chua chát va vào vách tường là tiếng chào đón mẹ con tôi ngày đầu tiên đặt chân vào xứ Mỹ.
Ba tôi cười nhợt nhạt trên vành môi khô héo, mẹ lặng lẽ đem hành lý vào một căn phòng thấp lè tè. Mùi hương thoang thoảng toả ra nhè nhẹ, nhưng cũng đủ làm mẹ con tôi tò mò tìm kiếm. Mắt mẹ xoáy vào trong chậu vành vành trắng phau nằm muộn màng bên góc phòng. Những mùi hương hờ hững và cách trang trí phòng thanh đạm đối với một con bé mười ba tuổi như tôi cũng thấy hay hay làm sao.
Thịt gà ở đây thơm phức, cắn một miếng mà vị ngọt bùi tê cả đầu lưỡi. Tôi ngấu nghiến trong giấc mơ thịt gà mà không hay biết rằng có sáu con mắt đang nhìn nhau bốc cháy. Tôi chợt ngừng lại và nhìn chăm chăm họ một cách ngơ ngác.
Không khí như một bãi tha ma, nơi những linh hồn cấu xé và thù hận lẫn nhau một cách xót xa, dù rằng không một lời nào vọt ra từ những vành môi xanh xao ấy. Ba lại mỉm cười, cái cười nhợt nhạt, bất lực mà tôi không thể quên được. Người đàn bà đó chợt đứng lên, nhìn đăm đăm vào hai mẹ con tôi rồi tự nhiên dọn dẹp tất cả, mặc dù tôi còn đang ngon miệng với đĩa đùi gà luộc.
Bầu không khí trở nên ê chề hơn, mẹ tôi kéo tôi vào phòng và bật khóc nức nở. Lệ từ trong khóe mắt quầng thâm sâu thẳm mà suốt bao năm trời mòn mỏi chờ ba tôi; tuôn ra từng giọt âm thầm trên đôi má hao gầy cuả mẹ.
Rồi từng ngày vẫn thế, chúng tôi sống trong sự lạnh nhạt cuả ba tôi và nước mắt thổn thức từng đêm của mẹ. Nhưng chỉ vẻn vẹn một tuần sau thôi, bầu không khí ảm đảm đã chấm dứt khi quần áo mẹ con tôi vô cớ bay ra đường. Lá vàng vô tình sao phủ đầy trên những kỷ niệm quê nhà giờ ngổn ngang trước sân. Tôi chẳng thèm khóc mà ngước lên nhìn người đàn bà đó mộ cách căm phẫn. Mẹ ôm chầm lấy tôi trong vòng tay yếu đuối. Tôi thét gào trong đau khổ nhưng gió buồn lùa qua cuốn đi hết những lời than khốn đốn đó.


Họ bước xuống bậc tam cấp và nhìn chúng tôi. Ba đứng đó và lại cái nhìn buồn nhợt nhạt. Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt vô hồn cuả ông. Đó là cha tôi, người cha theo tôi biết, từng một thời oanh liệt oai vệ giưã sa trường, từng trải bao gian nan sóng gió trong cuộc đời. Vậy mà thực tế, ngay giữa nước Mỹ an bình này, ông chỉ còn là cái bóng bất lực, không thể giải quyết được chuyện riêng cuả gia đình ông. Ông đứng đó, lặng lẽ nhìn vợ và đứa con 13 tuổi của ông bị tống ra khỏi nhà.
. . .
Đến hôm nay đã là năm năm rồi. Tôi chuẩn bị vào đại học Y Khoa, và con người thì cũng thay đổi hoàn toàn, không còn mê thịt gà như trước nữa. Nếu bây giờ ai mà tặng tôi nguyên một trại gà, thì chưa kịp cảm ơn chắc tôi đã lăn đùng ra xỉu. Nhưng mẹ vẫn thế, vẫn âm thầm từng ngày trong cuộc sống, vẫn u buồn thơ thẩn bên chậu vành vành trắng phếu.
Hoa đã rụng từ mấy năm rồi cớ sao hương thơm còn vương vấn mãi không thôi, trời hết mưa cớ sao trời lại chưa quang đãng.
Một ngày tình cờ tôi gặp ba trên phố với người đàn bà đó. Môi ba run lên như muốn nói với tôi một điều gì mà hằng lâu lắm ba muốn nói. Thôi, tôi xin ba đừng nói. Năm năm rồi tôi không muốn nhớ dù rằng bây giờ tôi vẫn chưa thể nào quên. Tôi không trách ba đã xô đẩy cuộc đời mẹ tôi vào bóng tối. Tôi không trách ba đã phụ bạc mẹ tôi vì trời cho lắm kẻ phong lưu. Tôi xin cảm ơn ba đã cho mẹ con tôi biết thế nào là nước Mỹ văn minh, xa hoa và đầy khác biệt này; để tôi có dịp so sánh con người và con người với nhau.
Nhìn thấy lại ba tôi trên phố, những điều không muốn nhớ lại trở về day dứt tôi. Ông đã phủi tay với quá khứ, cái quá khứ đã tìm đường cho ông trốn khỏi xứ xở đoạ đày, đã chung tình chờ đợi ông bao nhiêu năm dài trong địa ngục.
Ông đã phủi tay với tôi, đã nhẫn tâm để mẹ con tôi bơ vơ nơi xứ lạ quê người. Nhưng ông vẫn là ba tôi, tuy không nuôi lớn và dạy dỗ tôi, nhưng cũng hình thành nên vóc dáng này.
Xin ba cứ tiếp tục đi trên con đường của ba. Nợ ba một ngày tôi sẽ trả. Còn cái mà ba nợ mẹ con tôi làm sao ba trả nổi.
Đâu đây, tôi như đang cảm thấy một đoá hoa vành vành chợt rụng giưã đêm khuya, với nụ cười nhợt nhạt của ba đón mẹ con tôi tới nước Mỹ hôm nào.

DƯƠNG HOÀNG YẾN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,368,259
Tác giả lần đầu góp bài. Qua bài viết đầu tiên, đã thấy cách ông viết rất tinh tế, chu đáo, nhiều chi tiết sống động. Mong ông tiếp tục viết về nước Mỹ và vui lòng bổ túc sơ lược tiểu sử cùng địa chỉ liên lạc.
Tác giả sinh tại Saigon năm 1962, hiện cư trú tại Tulsa, Oklahoma. Nghề nghiệp: kỹ sư cơ khí, làm cho hãng Boeing, OKC. Học vấn: cao học. Gia đình: vợ và ba con: hai gái, một trai. Góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, Lê Như Đức là một tác giả rất được quí trọng. Mừng ông tiếp tục viết.
Tiếp theo chuyện “Saigon 68” đây là một hồi ức Mậu Thân về khu Thành Nội Huế. Định cư tại vùng Bắc Cali từ 20 năm trước, Deborath Tường Vân là nhân viên Sở Xã Hội San Jose và từng chăm sóc Bà Trùng Quang -vị niên trưởng của giải thưởng Việt Báo- liên tục hơn 6 năm cuối đời. Cô đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2012. Hồi ức Mậu Thân của Tường Vân là chuyện kể về khu Tây Lộc trong thành nội, nơi phải gánh chịu nhiều tang tóc nhất trong địa ngục Huế Tết Mậu Thân.
Capvanto là một bút hiệu khác của Philato, có lẽ do lối viết cách điệu từ Tô Văn Cấp, tên thật tác giả. Ông sinh năm 1944, từng là một đại đội trưởng thuộc TĐ2/TQLC, đơn vị có biệt danh Trâu Điên. Với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bài viết mới của ông là một hồi ức về trận chiến năm Mậu Thân, khi Đại Đội TQLC do ông chỉ huy được biệt phái theo tướng Nguyễn Ngọc Loan trong trận chiến Mậu Thân tại Saigon 1968.
Tác giả là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018. Ông qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Sau đây là bài viết về nước Mỹ thứ ba của ông.
Tác giả là cư dân Minnesota, đã nhận giải vinh danh tác giả Viết Về Nước Mỹ 2008. Với những bài viết thuộc nhiều thể loại đề tài, cô là một tác giả rất được bạn đọc yêu mến.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014 và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Nhân thời điểm 50 năm sau trận chiến Mậu Thân 1968 Viết Về Nước Mỹ 2018 sẽ có thêm giải thưởng đặc biệt về “Hồi Ức Mậu Thân”. Sau đây, xin mời đọc một bài viết cũ của tác giả Võ Trang, một kỹ sư điện làm việc cho Bộ Hải Quân Hoa Kỳ tại San Diego, kề từ hồi ức đau thương về người cha bị cộng sản chôn sống trong trận Tết Mậu Thân 1968 tại Gia Hội, Huế, khi tác giả còn là cậu bé 15 tuổi. Bài viết đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2009.
Tác giả sinh năm 1929 tại Quảng Trị, Cựu Trung Tá QLVNCH, cựu tù cải tạo. Định cư tại Sacramento, Cali. Năm 1991; Hội trưởng sáng lập Hội Thơ Tài Tử Việt Nam Hải Ngoại từ 1994; Sách đã xuất bản: Truyện ký "Người Trai Thời Chiến"; tập thơ "Chuyện Ngày Xưa"; Từng nhận “Certificate of Recogni-tion do The Sacramento International Poetry Hall of Fame tại Đại Hội Thi Ca Quốc Tế Sacramento 2006; Tác giả hiện là cư dân thành phố Garland, Texas và là Hội Trưởng Hội Người Việt Cao Niên Dallas nhiệm kỳ 2016-2017. Cho tới nay, với tuổi 89, ông cũng là vị tác giả cao niên nhất trong năm 2018 dự Viết Về Nước Mỹ. Kính chúc ông vui khỏe.
Nhạc sĩ Cung Tiến