Hôm nay,  

Chim Lạc Bầy

15/02/200100:00:00(Xem: 163360)
Bài tham dự số: 02-167-VB 0216

Khuyên và chồng dắt nhau tới Mỹ rất trễ. Nội cái vụ F4, thêm cái lừng chừng của Sponsor:
“Tao phải “canh me” ngày nghỉ, đổ xăng đầy bình, lái tuốt lên thủ đô D.C. điền đơn cho chắc ăn. Ba cái dịch vụ thế vì khai sanh của thời đệ nhất cộng hòa, tìm được chữ cũng trào máu họng. Nộp vô, đóng lệ phí nó biểu hồ sơ sẽ tới BangKok chờ... Đừng cám ơn tao. Dầu gì cũng là con một mẹ, anh em như tay chân...”
Bỏ ngoài tai những lời bàn ra, “con trâu chậm” kéo thêm được lão trâu chồng hơn ba mươi năm hương lửa lạnh lùng. Tội cho đàn nghé, đều trên 21, ở lại hết, còn tơ cũng ở lại. Diện PIP hết từ khuya rồi.
Trong thời gian chạy giấy tờ gặp nhiều rắc rối, chua chát, nhục nhằn quá, đôi lúc Khuyên muốn lùi bước. Bọn nghé lao xao tán vô, cơ hội hiếm có, phải chụp lấy, bỏ qua rất uổng, tụi con lớn rồi, ba mẹ đừng lo, nếu không có công ăn việc làm thì quay về tắm ao nhà với tụi con đừng mắc cỡ. Ba mẹ ăn ở phước đức được bụt BangKok thưởng đó tụi bây, cứ coi như một chuyến du lịch sau bao năm làm việc hết mình, cái ông phỏng vấn nói ba mẹ phải qua bển mới bảo lãnh cho tụi con được đi mà.
Khuyên rên rỉ: ”Nhưng xa các con... Mẹ buồn lắm!”
- Tụi con biết mà, mẹ có nhớ sau ngày 24 tháng 6 năm 1975 mẹ cũng nói ”Mẹ buồn lắm” thế mà mẹ nuôi được tụi con với ba trong trại.
Ngày 24 tháng 6 năm 1975 là ngày các sĩ quan dược lệnh đi trình diện “học tập 10 ngày.” Để rồi thành bẩy năm, mười năm, nhiều người đi không bao giờ trở về.
- Im miệng đi, nhiều lời quá, ngày mai ba mày đi đăng ký chuyến bay, chọn ngày nào sớm nhất.
- Hoan hô Mẹ, phụ nữ Việt Nam, đáng tám chữ vàng: anh hùng- Bất khuất- Trung hậu- Đảm Đang.
- Hoan hô.. Hoan hô, Í, phải muôn năm nữa chứ.
- Mẹ vĩ đại muôn năm, muôn năm...
Các con cố vui, Mẹ lại rầu thúi ruột.

Khuyên lại sụt sùi, ngay lúc chuyến bay vừa “bình phi”:
- Tụi Mỹ nó ngu quá, cho đi đoàn tụ mà lại chia cắt một gia đình khác.
- Sức mấy mà ngu, ngu mà hạng nhất thế giới. Có điều tụi nó làm việc máy móc lắm... Cũng tại mình xin đi chớ đâu phải nó ép.
- Phải thử thời vận, cũng rán đưa lưng ra chịu đấm.
- Có xôi để ăn không đó" Hai đứa trên trăm tuổi lại đòi thử thời vận nơi xứ của tuổi trẻ, năng động, tài năng...
- Anh lúc nào cũng bi quan, thiếu “tinh thần lạc quan cách mạng”
- Tôi hổng dám ” Mang dép lốp đi lên tàu Vũ trụ”.
Đó là một câu thơ của Tố Hữu ca anh hùng không gian Việt Nam đi ké phi thuyền Nga.
- Anh không thấy gia đình bác Thất sao, mới có mấy năm mà mua xe, mua nhà...
- Người ta khác, gia đình “hát ô” đông con, ưu tiên đủ thứ, mình ”ôm đóng phân” bà con bè bạn tránh như tránh tà.
Khuyên lại khóc.

Sponsor và người con gái đón vợ chồng Khuyên một sáng hè rực nắng. Trong chiếc Honda bốn bánh êm ru. Khuyên thích thú nhìn những con đường to rộng phẳng phiu đường dưới, đường trên, đường giữa đan nhau, xe chạy tới, chạy lui trong trật tự, từ phi trường về nhà không có cảnh kẹt xe hay đụng xe nào hết.
Nhìn kỹ số nhà Khuyên reo lên: Nhà đẹp quá, giống như trong tranh!
Căn nhà hai tầng màu trắng nổi bật giữa bải cỏ xanh mướt, có vài cây to và nhiều bụi hoa đủ màu đang khoe sắc, cũng có bướm bay chập chờn, con đường dốc thoai thoải im lìm, nhà nọ cách nhà kia hai khoảng sân cỏ...


- Đẹp hơn Đà lạt.
Đem valy và túi xách cất vào phòng rồi tắm rửa xong trên bàn đã có sẵn một nồi cháo, một dĩa gà xé bên cạnh chén mắm ớt đỏ lừ. Khuyên ăn thật ngon, miệng líu lo. Trên máy bay họ coi mình như gà ăn xong tắt đèn đi ngủ, vài ba tiếng sau bật đèn cho ăn cho uống rồi lại tắt đèn... ăn không được, ngủ cũng không được mệt đừ.
- Cô chú lên phòng ngủ đi, chiều ba cháu chở đi thăm thành phố.
Mở mắt ra thấy đồng hồ chỉ 6 giờ. Giường nệm đầy êm ái, khăn trải giường hoa văn trang nhã và thơm tho (giống như những căn phòng mà các khách sạn lớn của Saigon thường chiếu trên truyền hình) đã giúp Khuyên ngủ thật đã, quay qua không thấy chồng đâu, Khuyên nhoải dậy bước ra, qua hành lang xuống cầu thang.
- Chú và tôi đang lai rai chờ cô.
- Cháu Hoa đâu"
- Nó về nhà nó rồi, cuối tuần đưa chồng con tới thăm cô chú. Gia đình bác Phái, cô Định, chú Đào mới điện thoại hẹn thứ bảy, thím Đào sẽ trổ tài nấu Phở đãi.
- Em đói bụng chưa" Cơm canh sẳn sàng, cá ”sau mông” nấu canh chua hết xẩy, thịt màu vàng đỏ ngộ lắm, ngon như cá bông lau.
- Cháo gà, phở, canh chua... Mỹ gì mà in hệt Việt Nam!
-Khác lắm: Muốn đến nhà ai phải phone trước.
- Em thuộc bài rồi: Không được mặc đồ bộ hoặc bi gia ma ra khỏi nhà nè, không được hỏi lương bao nhiêu nè, không được hỏi tuổi phụ nữ nè, thấy người té không được tới đỡ dậy nè, gọi nai one one nè...
- Còn một điều hấp dẫn nữa mà em hổng biết đâu: Tối ngủ khỏi treo mùng.
- Tôi đã dặn chú ra vào phải đóng cửa để tránh ruồi muỗi.
. . .

Thư về Việt Nam.
USA ngày.. tháng ...năm
Các con thương nhớ,
... Hồi nhỏ Ba Mẹ được học “nước ta giàu và đẹp có rừng vàng biển bạc.”
Bây giờ ”Hai con ếch” biết thêm một điều nữa ”nước Mỹ cũng giàu và đẹp, hơn nước ta nhiều lắm”.
. . .

Sau 1 tuần có “sô sô”, sau hai tháng có “thẻ xanh”. Hai người di dân lại dọn đồ đạc vào valy, túi xách cho một chuyến dời đổi. Khí hậu đã được đặt ưu tiên số một, viễn ảnh mùa đông giá lạnh tuyết phủ đầy trời giúp cho các giọt máu đào cũng bớt băn khoăn tiễn em về miền Tây. Nơi ấy nhiều người Việt nhất, có tất cả các thức ăn của nước Việt, khí hậu ấm và tốt hơn và muốn về thăm con cái đường gần rẻ, tiết kiệm được bộn tiền.
Ở một phòng “se” nho nhỏ, trên hai chiếc mền xếp đôi, dưới hai chiếc nệm lớn, vợ chồng Khuyên nói chuyện thì thầm:
- Bây giờ mới thiệt là tứ cố vô thân, không biết có trụ được hay....
- Nghe nói người Việt có nhiều cơ sở làm ăn, tìm việc chắc không khó.
- Bạn anh nói càng nhiều càng phức tạp, những người di tản đã ổn định để thế hệ thứ hai vững vàng hòa vào với người bản xứ còn thế hệ thứ ba đi thẳng vào dòng chính đã là Mỹ. Những người vượt biên hoặc đi bán chính thức cũng bén rễ, đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa. Còn những người ở diện “hát ô” với nhiều kinh nghiệm và bản lĩnh mau chóng thích hợp với mãnh đất tạm dung. Tất cả họ là Mỹ.
- Còn chúng ta...
- Em nghe đầy lỗ tai rồi đó... những con trâu chậm đưa lưng chịu đấm để theo voi ăn...
- Họ nói gì thây kệ, em muốn biết mình là ai"
- Là người điếc... là chim lạc bầy...
- Đúng, mình là chim lạc bầy.
. . .
Trên những con đường của khu Saigon nhỏ, để ý một chút, quý vị sẽ thấy một người lang thang nhiều đường phố để tìm bầy…

Cuối năm Canh Thìn
PHAN CHÂU HƯƠNG

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,453,135
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến