Hôm nay,  

Chuyện Texas: Con Anh, Con Em

05/01/200100:00:00(Xem: 190206)
(Bài tham dự số 104\VBST)

Houston thành phố lớn thứ mấy của Mỹ tôi không biết nhưng khi đến đây tôi như một "thằng khờ" đi ra tỉnh, ngơ ngác, khù khờ. Phố xá sao mà đông xe khiếp, tất bật rộn ràng như nuốt chửng thời gian, từng chiếc, từng chiếc nối tiếp nhau chưa bao giờ dứt. Các tòa nhà chọc trời ôi thôi dòm mút con mắt, à, mà lại nhiều nữa chứ, không sao đếm xiết. Nhà lầu ở Los chỉ chiếm vị trí "khiêm nhường" khi so với Houston mà thôi.

Về hướng SW khoảng 3 miles thêm một cụm nhà lầu khác, số lượng bằng cả vùng downtown của thành phố lớn nhứt tiểu bang Florida, Jacsorwill. Đi thêm 3 miles nữa lại thêm một xóm nhà lầu lớn hơn. Ôi kể sao cho hết ba cái nhà cao tầng ở thành phố này!

Đi tiếp 3 miles đến con đường mang tên Bellaire dài hun hút, đi trên đường này thấy ngút ngàn cơ sở làm ăn của dân ta. Người Việt mình thành công tại thành phố này nói riêng. Cộng đồng người Hoa "chủ trì" địa bàn này từ lâu, nay có thêm người Việt "lấn đất giành dân" do đó đã sầm uất giờ thêm phần tấp nập, dân bản xứ cũng phải vị nể sinh hoạt thương trường của dân ta.

Chỉ riêng con đường Bellaire này đã có hơn 10 cái shopping center do người Việt làm chủ, mỗi cái Shopping cũng góp phần thu hẹp diện tích của con đường vốn đã thưa thớt từ thập niên 70. Ở đây lại vừa mới khai trương "HongKong Mall." Nghe nói chủ nhân Mall này là người Việt "Cholon." Trước đây, đã làm chủ ba cái chợ Hong Kong khác. Bây giờ thêm cái HongKong mall thứ tư. Đây là một khu rất ư là "khổng lồ". Trong bãi đậu xe có đường dành riêng cho xe cộ giao thông, mỗi ngã tư đều có bảng stop . Bãi đậu ngay hàng thẳng lối theo kiểu sấp cá mòi phải hơn 300 xe. Nếu đem so sánh với khu Shopping mới này, Phước Lộc Thọ ở thủ phủ tị nạn có lẽ chỉ là trái banh tenis so với trái bóng đá của đội nữ Hoa Kỳ đã hạ đội nữ Trung Quốc tại Los để đoạt chức vô địch thế giới quá oai phong.

Nói đến mall không nói đến xe quả thật thiếu xót. Dân mình không biết làm ăn thế nào nhưng sắm xe chẳng ai bì kịp, mặc dầu xe đời mới nhiều tiền cở nào mà phải là xe Nhựt mới được dân ta sờ tay mó đến bất kể ra sao thì ra. Có lần chở anh bạn Mỹ đến khu đậu xe này, anh ta trố mắt đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, miệng há hốc và luôn mồm: Oh, my god, your poeple have a nice car.

Về hướng phi trường ở S.45 có mấy làng Việt Nam. Nói là làng nhưng thực ra ở đây có mấy khu phố thuộc loại không mấy khang trang. Người Việt kéo đến tràn ngập khu này nên những sắc dân khác phải "cuốn gói" di dời, dần dà Việt Nam chiếm đất 100%. Nhiều khu nhà có tấm bảng treo ngoài cổng đề chữ Việt đàng hoàng. Trong làng, thường thấy đủ loại bảng viết chữ Việt như "xin nhớ đóng cửa, giữ vệ sinh..." Bước chân vào đây ta cứ ngợ ngờ như ta đang sống ngay trên mảnh đất quê hương thân yêu xa nửa vòng trái đất.

Chính tại khu làng Việt Nam này, tôi có quen một người trong làng tên M.M. Người ấy kể cho nghe chuyện gia đình "con anh con em" tại làng.

Nắng chiều đã nhạt, trong căn phố tầng trệt trong làng, cô bé Thanh đang cặm cụi đạp máy viền mép khăn mặt. Bỗng tiếng xe ầm ầm vụt tắt, cánh cửa nhà mở vội và giọng the thé của chị A:

"Trời ơi, giờ này mày chưa xong" Còn bao nhiêu là việc cơm nước"

Cô bé Thanh 16 tuổi, nhưng trông như đứa bé mười một, mười hai còm còm. Bị la mắng, cô bật dậy, mặt tái mét:

"Thưa dì, con..."

Chị A rít lên:

"Mày lại đàn đúm chớ gì, có hơn năm chục cái khăn mà mày sờ sẫm từ sáng tới giờ chưa xong. Con nhà vô phúc, chỉ biết ăn, ăn cho lắm vào."

Vừa lúc đó anh Tòng, chồng chị A đi làm ở hãng chả giò cách đó mấy dặm cũng về tới. Trong xe anh Tòng có thằng con trai mười tuổi anh vừa đón từ nhà bạn về vì cháu đang lúc nghĩ hè. Thằng bé nhảy xuống xe reo lên gọi:

"Chị Hai ơi, ra đây em cho cái này!

Chị A trừng mắt quát:

"Cho ...này cho," chị chỉ vào mặt bé Thanh, "Mày còn trố mắt nhìn bố mày hả, vào phòng tắm vặn nước cho em tắm. Nhanh lên, cơm nước giờ này chưa xong."

Anh Tòng mặt nghệch ra, khẽ nói:

"Em cũng từ từ để con nó làm. Ở nhà nó vừa phụ may, vừa lo cơm nước, cũng vất vả tối ngày..."

Chị A được dịp kêu lên:

"Phải rồi con anh vất vả lắm, không có cái con này thì đã te tua như giẻ rách rồi. Anh bênh cho lắm vào rồi mai mốt nó làm bà chủ để con này hầu."

Thấy bà vợ đanh đá, anh Tòng lẳng lặng vào bếp phụ bé Thanh cơm nước, còn chị A đi tắm cho thằng con trai.

Bữa cơm gia đình anh Tòng bình thường như bao bữa cơm của các gia đình khác, đơn giản, nhẹ nhàng, vừa ăn vừa coi Tivi.

Anh Tòng trước ở NewYork, vợ anh mất do bị bạo bệnh. Theo một người thân rủ anh rời nơi lạnh lẽo về miền nắng ấm làm ăn. Anh không có nghề nghiệp chuyên môn nên xin vào làm hãng chả giò.

Năm 1989 anh xây dựng với chị A, năm đó chị đã ở tuổi băm mấy. Hai người thông cảm với nhau, năm sau chị A sinh đứa con trai, bé Thanh cũng biết coi em.

Khi chị A đi làm, bé Thanh ngoài giờ học phải giữ em chăm sóc từ bé nên hai đứa thương nhau lắm. Chúng không phân biệt con riêng, con chung nên bé Thanh có cái gì cũng để em ăn, bé Ba có gì cũng dành cho chị.

Dù vậy, chuyện "con anh con em" ngày nào cũng có lúc làm trong nhà nặng nề.

Một buổi tối sau bữa cơm, bé Thanh may xong phần khăn rồi ra sân thì thấy bé Ba đứng đợi dưới gốc cây bông trúc đào. Hai chị em ngồi bên nhau trò chuyện.

Bé Ba ôm đầu bé Thanh nói:

"Chị Hai ơi, em thương chị quá, mẹ mắng, đánh chị hoài à! Sao người lớn thích đánh chị vậy""

Bé Thanh rưng rưng nước mắt, nhưng nó biết nghĩ nên nói:

"Đâu có, mẹ em thương chị đấy."

Bé Ba đẩy đầu Bé Thanh ra:

"Ứ ừa, không phải, mẹ em ghét chị lắm đó, em nghe mẹ em nói vậy. Mẹ em mà cũng chết như mẹ chị, ba mà lấy vợ khác, bà cũng chửi em bắt em làm việc khổ cực như chị, em bắt ba phải bỏ bà ấy, và em sẽ..."

Chị A vô tình đến sau lưng hai đứa bé từ lâu, chúng không biết. Khi chính tai chị nghe con trai chị nói lên sự thật nó thấy, chị bỗng lặng người, rùng mình khiếp sợ.

Không cần phải nghe thêm gì nữa, chị A chạy ào lại, ôm chầm lấy hai đứa con nước mắt trào ra, chị hôn hai đứa con và khóc như chưa bao giờ được khóc. Cả ba mẹ con đều khóc và cùng ngụp lặn trong sự mừng tủi.

Chuyện kể trên đây làm tôi bâng khuâng.

Tôi ước mong các bố mẹ trong những gia đình có cảnh "con anh, con em và con chúng ta" sẽ có dịp lắng nghe tiếng nói chung của con cái mình. Nếu không kịp điều chỉnh lại cách đối xử thì hậu quả thật khó lường.

Hồ Trung Hoàng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,307,615
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Bút hiệu của tác giả là tên thật. Bà cho biết sinh ra và lớn lên ở thành phố Sài Gòn, ra trường Gia Long năm 1973. Vượt biển cuối năm 1982 đến Pulau Bibong và định cư đầu năm 1983, hiện đã nghỉ hưu và hiện sinh sống ở Menifee, Nam California.
Tháng Năm tại Âu Mỹ là mùa hoa poppi (anh túc). Ngày thứ Hai của tuần lễ cuối tháng Năm -28-5-2018- là lễ Chiến Sỹ Trận Vong. Và Memorial Day còn được gọi là Poppy Day. Tác giả Sáu Steve Brown, một cựu binh Mỹ thời chiến tranh VN, người viết văn tiếng Việt từng nhận giải văn hóa Trùng Quang trước đây đã có bài về hoa poppy trong bài thơ “In Flanders Fields”. Nhân Memorial sắp tới, xin mời đọc thêm một bài viết khác về hoa poppy bởi Phan. Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ.
Tác giả 58 tuổi, hiện sống tại Việt Nam. Bài về Tết Mậu Thân của bà là lời kể theo ký ức của cô bé 8 tuổi, dùng nhiều tiếng địa phương. Bạn đọc thấy từ ngữ lạ, xin xem phần ghi chú bổ túc.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Sau đây, là bài mới viết về đứa con phải rời mẹ từ lúc sơ sinh năm 1975, hơn 40 năm sau khi đã thành người Mỹ ở New York vẫn khắc khoải về người mẹ bất hạnh.
Tác giả sinh trưởng ở Bến Tre, du học Mỹ năm 1973, trở thành một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, hiện đã về hưu và an cư tại Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, đã nhận giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông nhân Ngày Lễ Mẹ kể về người Mẹ thân yêu ở quê hương.
Hôm nay, Chủ Nhật 13, Mother’s Day 2018, xin mời đọc bài viết đặc biệt dành cho Ngày Lễ Mẹ. Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Chủ Nhật 13 tháng Năm là Ngày Của Mẹ tại nước Mỹ năm 2018. Mời đọc bài viết của Nguyễn Diệu Anh Trinh. Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng, đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng bố và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ bằng cách viết lời giới thiệu và chuyển ngữ từ nguyên tác Anh ngữ bài của một người trẻ thuộc thế hệ thứ hai của người Việt tại Mỹ, Quinton Đặng, và ghi lại lời của người me, Bà Tôn Nữ Ngọc Quỳnh, nói với con trai.
Nhạc sĩ Cung Tiến