Hôm nay,  

Chiếc Mũ Năm Xưa

03/02/201400:00:00(Xem: 17263)
Tác giả: Võ Quách Tường Vi
Bài số 4131-14-29541vb8020214


Tác giả là một Y sĩ nội khoa và là Giáo Sư Đại Học tại Texas. Bài viết về nướcMỹ đầu tiên của Bà là “Chai Dầu Gió Xanh”, kể chuyện trên một chuyến bay khitác giả hướng dẫn phái đoàn gồm 33 giáo sư, sinh viên đi Việt Nam thực hiện mộtchương trình y tế của đại học TWU, Texas. Bài viết thứ hai của bà là môt chuyệntình “đơn phương, nhẹ nhàng, thâm trầm mà sâu sắc” từng làm chính nhân vật màcũng là tác giả đẫm lệ.

image002
Cô sinh viên khoa học và chiếc mũ hơn 40 năm trước.

image001
Và tác giả.

* * *

Nhìn qua khung cửa sổ của phòng cấp cứu, bên ngoài trời đã bắt đầu xế chiều.Cơn nóng của mùa Hè vẫn còn gay gắt khi tôi chạm tay vào cửa kiếng. Sắp tới giờđi thăm bệnh nhân trong khu nội trú rồi. Từ khi vào bệnh viện hồi sáng sớm đếngiờ, tôi chưa có dịp để đi ra ngoài.

Phòng cấp cứu hôm nay quá bận với nhiều bệnh nhân bị bệnh rất hiễm nghèo cần chữatrị kịp thời. Có ba bệnh nhân không thở được nên phải đặt ống thở nội khí quảnvà đã được chuyển lên phòng ICU hay Phòng Hồi Sinh để theo dõi điều trị. Năm bệnhnhân khác đã nhập viện để cho thuốc kháng sinh theo đường nước biển, và cho thuốchoá trị khẩn cấp, vì bệnh ung thư đã lan tràn nhiều nơi.

Có những bệnh nhân đã được trị bệnh bằng hoá chất, sau một thời gian khoảng chừng7 tới 10 ngày thì tiểu cầu, hồng huyết cầu, và bạch huyết cầu đã bị xuống thấp,bị sốt cao, không ăn uống gì được, rất nguy hiểm đến tính mệnh. Còn những bệnhnhân khác đi vào phòng cấp cứu vì bị tăng độ đau đớn trong người, hay đang chờkết quả xác nghiệm của máu, nước tiểu, hình chụp quang tuyến, hay CAT Scan vàMRI.

Không khí trong phòng cấp cứu bây giờ thì cũng không ồn ào lắm. Phần lớn aicũng ăn nói nhỏ nhẹ và ít gây tiếng động. Nhưng một khi có bệnh nhân bị tắt thở,tim ngừng đập, các nhân viên của phòng cấp cứu phải gọi “code blue” để được cấpcứu lập tức.

Khi code blue này được gọi, có những bác sĩ ngoại khoa hay chuyên về gây mê cũngtúc trực một bên, để trong những trường hợp khó tìm mạch máu hay cần bỏ ống thởvào nội khí quản thì họ sẽ sẵn sàng mà giúp một tay. Không khí trong phòng cấpcứu sẽ sống động hẳn lên, với tiếng người đối đáp, máy móc lao xao, điện thoạihay máy Fax rung tiếng liên hồi, và những âm thanh lanh lảnh qua hệ thống truyềntin trên trần nhà.

Đôi khi, cũng có những tiếng nấc nghẹn ngào của những gia đình thân nhân vìđang lo lắng không biết người thân yêu của mình có qua khỏi lúc ngặt nghèo nầyhay không. Ban đầu, mới nhìn vào thì thấy rất hổn loạn, nhưng thật ra thi nócũng có cái thứ tự riêng của nó. Mọi người ai cũng có một vài nhiệm vụ để làm,như một bộ máy liên kết cùng ăn khớp với nhau.

Tôi về làm cho bệnh viện này từ hồi mới ra trường. Tưởng chừng sẽ làm tạm ở đâyvài năm rồi chuyển qua ngành tim mạch mà tôi rất có cảm tình từ khi còn đi học.Nhưng dần dà tôi lại thích tiếp xúc với những bệnh nhân bị những chứng bệnh nangiải nầy. Tôi thông cảm và thấy thật gần gũi với họ. Và “vài năm” của tôi lạitrở thành “vài mấy chục năm” nay rồi.

Bệnh viện nầy chuyên chữa trị bệnh ung thư và là một bệnh viện lớn nhất trên nướcMỹ với những chương trình nghiên cứu và điều trị ung thư rất tân kỳ. Bệnh nhâncủa nhà thương nầy đến từ khắp nơi trên thế giới. Từ những người nói tiếng TâyBan Nha đến tiếng Thố Nhỉ Kỳ, tiếng Trung Đông, Châu Phi, Phi Luật Tân, hay tiếngTàu… Như vậy tôi cũng được học hỏi thêm nhiều và thích nhất là những người đồngnghiệp của tôi cũng rất dễ thương và thân thiện.

Mấy năm đầu, vì là một trong những người Việt Nam đầu tiên làm việc ở nhàthương nầy, nên mỗi khi có bệnh nhân người Việt đến, tôi thường hay được gọi đểthông dịch giùm. Nhiều khi quá bận, không đến được lúc ấy thì tôi lại tìm dịpghé thăm sau, để hổ trợ tinh thần cho những người bệnh nhân nầy và gia đình củahọ. Và từ đó tôi đã trở thành “Cô V. Y Sĩ” mà những bệnh nhân thường hay gọi mộtcách rất thân tình. Tôi đã trở thành một phần tử trong gia đình của họ một cách“bất đắc dĩ”, từ những bữa tiệc mừng sinh nhật thôi nôi, đến cả những ma chaycưới hỏi, họ đều muốn tôi tham dự.

Sau nầy, khi số bệnh nhân người Việt tăng nhiều, ban điều hành của bệnh viện cómướn thêm thông dịch viên nên tôi cũng đỡ... khổ. Và cũng như đã hiễu ngầm vớinhau, mỗi khi có bệnh nhân người Việt vào phòng cứu cấp, các vị y sĩ khác đều“nhường” cho tôi. Họ thường nói là tôi sẽ hiểu ý bệnh nhân hơn và như vậy việcchữa trị cho bệnh nhân cũng sẽ hiệu quả hơn. Tôi thì chỉ cười và nói sao cũngđược, nhưng trong lòng rất vui vì có dịp đế tiếp xúc và hàn huyên với đồnghương người Việt của mình. Tôi luôn thầm nhủ rằng mọi việc trên đời đều có số mệnhcả. Nếu mình có thể chia sẻ những buồn vui, tạo niềm tin yêu và giữ nguồn hy vọngcho những người bạn đồng hương kém may mắn này thì việc gì rồi cũng có thể quađi.

oOo

Có bàn tay ai đang đặt nhẹ trên vai tôi. Tiếng của Ted nói:

- Tới giờ đi khu nội trú rồi. Mình đi thôi.

Ted là một bác sĩ chuyên về nội thương và làm chung nhóm của tôi. Anh trẻ hơntôi khoảng 5 tuổi, rất tận tâm với bệnh nhân. Anh hay tâm sự với tôi về việcgia đình cùng hai đứa con và người vợ Ý Đại Lợi của anh. Chúng tôi rất thân thiếttrong tình đồng nghiệp làm chung với nhau.

Cầm cái ống nghe bỏ vào túi áo lab, tôi đứng lên đi với Ted. Bỗng cô Jenny, điềudưỡng trưởng của phòng cấp cứu, lật đật chạy vào:

- Dr. V, có một bệnh nhân đang đến bằng xe cứu thương trong vòng vài phút. Rấtnguy kịch không thở đươc. Ông ấy chỉ nói tiếng Việt thôi, nhờ Dr. V ở lại mộttí để giúp chúng em nhé. Cô Jenny năn nỉ.

Bác sĩ Ted nói:

- Thôi V cứ ở lại một chút đi, tôi đi trước cũng được. Khi nào xong thì gặpnhau ở khu Tim Phổi lầu 7 đó nha.

- Ok, cảm ơn Dr. Ted nhiều nhe.

Quay qua cô Jenny tôi hỏi:

- Bệnh nhân này là ai vậy Jenny?

- Dạ đây là ông Thanh, 60 tuổi, bệnh nhân mới của bệnh viện, tuần trước có vàophòng khám để gặp bác sĩ Morris vì bệnh ho kinh niên. Họ đang tình nghi bệnhnhân bị bệnh lao phổi đó. Như vậy thì mình phải đeo mask (khăn vuông nhỏ cógiây thung choàng đầu đeo vào để bảo vệ mũi miệng ngăn ngừa khỏi bị lây bệnh).

- Ok, thôi mình qua phòng code blue đi.

Phòng code blue là phòng dành cho những bệnh nhân bị nguy hiểm đến tính mệnh, sắpchết hay hấp hối. Phòng này có đầy đủ dụng cụ cứu cấp, Oxigen, máy đo hay shocktim, phòng mổ tiểu khoa, thuốc mạnh cấp cứu. Khi bệnh nhân không may phải vàophòng này thì sống chết như chỉ mành treo chuông, hy vọng chỉ đặt vào trong taycủa những bác sĩ cùng điều dưỡng chuyên nghề.

Có tiếng còi xe cứu thương hụ lên từ ngoài đường lớn và ngừng lại ở trước cửavào của phòng cấp cứu. Hai người trong xe cứu thương nhảy ra, hai người haibên, đẩy một băng-ca đi ở chính giữa. Trên băng-ca này có một bệnh nhân người ÁChâu, thở rất khó khăn và đang được tiếp hơi Oxigen chuyền qua ống dây nhỏ gắnvào trong lỗ mũi. Bệnh nhân độ chừng khoảng 57 tới 60 tuổi, mái tóc đã điểm muốitiêu trên một vầng trán rộng với đôi chân mày đen rậm đẫm giọt mồ hôi. Khi chuyểntừ băng-ca qua giường, anh cố giương mắt lên nhìn nhưng sau vài giây là nhắm mắtlại. Hai bàn tay để trên bụng và đang nắm chặt một túi xách của hãng hàng khôngPan Am đã ngã màu, các góc cạnh thì sờn và bị nứt nẻ rất nhiều.

Các y tá điều dưỡng và nhân viên phòng cấp cứu đổ ập lại. Người thì lấy áp xuấtmáu, người thì lấy máu, người hỏi hồ sơ lý lịch của bệnh nhân qua người bạncùng đi theo đến bệnh viện. Không khí phòng cấp cứu sống động hẳn lên. Nhânviên nào cũng đeo mask màu vàng và mang găng tay khi tiếp xúc với bệnh nhân.Khi một cô y tá giở tay anh để lấy cái túi xách Pan Am đi thì anh bấu chặt lại,không cho gỡ ra. Người y tá phải dỗ dành hứa là sẽ trả lại cho anh, một lát sauanh mới chịu nhẹ lơi tay ra.

Có tiếng của Jenny báo cáo:

- Dr. V, áp xuất của ông Thanh là 76/48, mạch máu là 120 nhịp một phút, hơi thởlà 28 trong một phút, độ Ốc-xi trong máu là 86 với lượng Ốc-xi non rebreathermask.

- Em cho 1 lít dung dịch nước biển vào mạch máu mau đi. Mở cho nước biển chảythật nhanh nhé. Gọi ban gây mê và chuẩn bị cho đặt ống vào nội khí quản. Tôinói.

Jenny báo cáo tiếp:

- Dr. V, kết quả thử nghiệm về rồi với hồng huyết cầu là 2000, tiểu cầu 45000,bạch huyết cầu 15000. Mấy thử nghiệm khác cũng bình thường.

Bệnh nhân nầy thiếu máu? Tại sao? Tôi đặt câu hỏi trong đầu mình. Khi tôi khámbệnh nhân dù tim đập rất nhanh nhưng nhịp độ thì bình thường, phổi thì khò khèvà khó thở, người không bị phù thủng. Bệnh nhân chỉ hé mắt nhìn tôi rồi khép lại.Tôi nói với Jenny.

- Em cho bắt đầu kháng sinh bằng đường vein đi nhé.

Lúc nầy thì một bác sĩ gây mê đã đến đặt ống thở vào khí quản của bệnh nhân. BỗngJenney hớt hải chạy đến báo cáo với tôi:

- Dr.V, áp xuất của ông Thanh giờ bị tuột xuống còn 60/30 thôi và mạch rất yếu

Tôi ra lệnh:

- Bắt đầu Dopamine drip đi em và bolus 1 lít dung dịch nước biển đi. Khi áp xuấthuyết ổn định một chút, em cho bệnh nhân đi chụp CT scan của phần ngực nhe.

Dopamine là một loại thuốc có thể làm mạch máu co lại và áp xuất tăng lên.

Khoảng chừng 30 phút sau thì Jenny cho biết là áp xuất của ông Thanh đã ổn địnhvà hơi thở cũng bình thường với máy trợ hơi thở-respirator và đang được chuyểnlên phòng cấp cứu đặc biệt (ICU). Phong, người bạn của Thanh, vẫn đứng lẩn quẩntrong phòng cấp cứu. Tôi đến nói chuyện với Phong một chút.

Phong kể rằng ngày xưa Thanh học bên Đại Học Khoa Học đến năm thứ Hai thì bị độngviên đi khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Sau 75 thì ở lại Việt Nam. Thanh qua địnhcư ở Mỹ hơn 15 năm nay rồi, đã ly dị và có một đứa con gái, nhưng ngưng liên lạcvới gia đình gần 10 năm nay. Anh hút thuốc lá rất nhiều và thường có những cơnho liên tục từ 5 năm về trước. Lần gặp bác sĩ Morris tuần rồi, anh bị nghi làvướng bệnh lao và đang chờ kết quả của cuộc thử nghiệm đàm. Cuộc đời Thanh cónhững thăng trầm mà Phong đã tâm sự sơ qua cho tôi nghe một cách rất nhẹ nhàngvà vắn tắt.

Khi nghe Phong kể lại những chuyện nầy làm tôi nhớ về những năm học ở Đại HọcKhoa Học ở Sài Gòn.

oOo

Sau khi học xong bậc trung học ở trường công lập Ngô Quyền Biên Hoà, tôi lênSài Gòn học tiếp. Tôi ở chung với năm người bạn gái khác, trong một căn nhà nhỏcó gác ở trên từng hai, đường Hồng Thập Tự Sài Gòn. Chúng tôi chia ra để làm nhữngviệc như nấu cơm, đi chợ cho cả nhóm. Có những tối, cả nhóm họp lại, tôi đánhđàn guitar, các bạn quây quần hát những bài hát như Như Cánh Vạc Bay, Phố NúiCao Phố Núi Đầy Sương, Căn Nhà Ngoại Ô... Cả đám cười vui trên căn gác trọ nhỏhẹp.

Từ căn nhà trọ nầy đến trường thì rất gần, tôi đi bộ được. Nhớ hồi ấy có haihàng cây phượng tây rợp bóng mát hai bên đường, đi bộ rất là thú vị. Tôi nhớ lạinhững buổi sáng thứ Bảy có giờ thực tập tại phòng lab cho môn động vật, mổ contôm càng bị đầu tôm chích vào tay đau điếng và có những lần tôi đi học trể, bịkhóa cửa không được vào, đi lang thang trong khuôn viên trường đại học.

Trường đông sinh viên, không đủ chổ ngồi nên chúng tôi thường chen chúc nhau ngồitrên sân khấu của giảng đường gần thầy cô, vừa dễ nghe, nhưng phải tội là sau mấytiếng đồng hồ ngồi một chổ, lưng và chân thiếu điều muốn co lại, đi không nổi.

Tôi cũng nhớ có những lần lên Thủ Đức đi tìm những lá cây cho môn thực vật. Khiđi về nắng cháy da, nằm la liệt mấy ngày.

Tôi thường hay đội cái mũ nhựa trắng, phủ che mặt và phía sau đầu, nhưng vẫnkhông đủ mát cho những ngày nắng cháy Sài Gòn hay Biên Hòa. Chiếc mũ này có rấtnhiều kỷ niệm đối với tôi. Tôi đã dùng tiền lương đầu tiên ít ỏi mà tôi đã kiếmđược bằng đi dạy kèm để mua cái mũ này. Dù không trị giá bao nhiêu, nhưng đối vớitôi nó tượng trưng cho sự trưởng thành và tự lập của mình.

Từ đó chiếc mũ này đã theo tôi đi nhiều nơi như khi tôi tham gia vào đám vănnghệ “Thằng Bờm”, cùng các bạn bè đi lang thang trong các câu lạc bộ, hát nhạcdân ca, đi học hay đi lên Bình Dương, dọn dẹp lại những căn nhà bị phá vỡ vìbom đạn.

Và có những buổi sáng sớm thứ Hai, tôi đạp xe từ Phúc Hải - Dưỡng Trí Viện lênnhà Ga Biên Hoà để đi Sài Gòn học, hai bên đường rất vắng vẻ vào lúc năm giờsáng, đầu vẫn đội cái mũ nầy làm tôi cũng bớt sợ. Sau đó một dạo thì tôi làm mấtcái mũ này, tìm hoài không thấy. Tôi lại thay nó bằng một cái nón lá nhưng ít độihơn vì nón lá, khi chạy xe đạp xuống dốc, hay bị gió cản lại, rất là bất tiện.

Mới đây mà đã mấy chục năm rồi, vật đổi sao dời, cảnh cũ người xưa không bao giờtìm lại được.

oOo

Ngày hôm sau, tôi có ghé qua phòng ICU thì thấy Thanh có vẻ bớt nhiều, tỉnh táohơn một chút nhưng vẫn còn dùng ống hô hấp nhân tạo. Anh nhìn tôi một cách chămchú và chúng tôi dùng tay làm dấu để nói chuyện với nhau.

Nhân viên điều dưỡng cho biết anh sẽ không cần ống hô hấp nhân tạo nữa vào chiềunay nếu mọi việc không có gì thay đổi. Thanh làm dấu cho tôi biết là anh đangthèm thuốc lá. Trời ơi! Bệnh gần chết mà cũng còn ghiền thuốc! Tôi lắc đầu và mỉmcười mà thôi. Kết quả về vi trùng lao -Koch- được thử nghiệm nhưng chưa có.Nhân viên nhà thương vẫn còn đeo mask khi đến chăm sóc anh.

Buổi chiều ngày hôm sau, tôi đến thăm, thì Thanh được di chuyển xuống khu bệnhlao phổi. Thanh có vẻ khoẻ hơn nhiều, hơi thở bình thường và ống thở đã đượcrút ra, chỉ còn thở Ốc-xi qua mũi thôi. Thấy tôi thì Thanh mỉm cười và lên tiếngchào. Thanh hỏi.

- Dạ đây có phải là Dr. V mà hôm tôi mới vào đã gặp rồi phải không?

- Đúng vậy đó anh Thanh. Hôm ấy anh bị bệnh rất nặng. Tôi rất là ngạc nhiên khianh còn nhớ. Anh thấy người ra sao? Thở còn khó khăn không? Tôi hỏi.

- Dạ tôi đã bớt nhiều, thở có vẻ dễ dàng hơn nhiều. A, Dr. V, xin lỗi không hiểuDr. V sinh ở đâu vậy? Thanh hỏi.

- Dạ tôi sinh ra ở Bình Định và lớn lên ở Biên Hoà. Mà anh hỏi để làm gì vậy ?Tôi hỏi lại.

- Dạ tôi thấy đôi mắt của Dr. V mang máng giống một người nên hỏi vậy thôi. Xinlỗi nha.

Thanh trả lời giọng nói của anh lộ vẻ buồn bã, âm thanh trầm như có chút buồnphiền và trách móc. Tôi hỏi.

- Nghe bạn anh nói ngày xưa anh học ở Đại Học Khoa Học. Tôi cũng học ở đó mấynăm. Anh học năm nào vậy?

- Dạ tôi học năm 72-73. Cuối năm 73 thì tôi bị động viên nên đi Thủ Đức. Thanhtrả lời.

- A, thì ra vậy. Lớp đông quá nên không nhớ ai là ai cả. Tôi nói.

- Vâng, đúng vậy. Thanh nói xong rồi im lặng. Đôi mắt nhìn xa xăm và biểu lộ sựmệt mõi.

Tôi về phòng làm việc, coi lại hồ sơ của Thanh. Khi liếc qua kết quả của CT phổithì tôi khựng lại, tim như muốn ngừng đập một giây phút. Kết quả ghi rõ ràng làcó một cục bứu rất lớn, khoảng chừng 4.5 cm ở phổi phía trên bên trái với nhữngđặc điểm tiêu biểu cho ung thư phổi loại tế bào Oat Cell hay tế bào ung thư phổiloại nhỏ.

Những tế bào ung thư nầy đã lan tràn qua những hạch chung quanh và đến gan. OatCell hay những tế bào ung thư ung loại nhỏ rất là khó trị, lan tràn rất mau vàtỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm rất thấp. Loại ung thư nầy, nếu dùng hoá trị(thuốc trị những tế bào ung thư, thông thường phải chuyền qua mạch máu qua nhiềuchu kỳ), thường mang đến kết quả hữu hiệu hơn so với những cách trị khác.

Tôi gọi bác sĩ Ted, bây giờ bác sĩ nội khoa cho Thanh. Ted hẹn sẽ gặp tôi ởphòng của Thanh để chúng tôi cùng thông báo kết quả cho bệnh nhân biết. Khichúng tôi đến phòng Thanh thì Phong cũng có mặt. Ted báo hung tin nầy choThanh, còn tôi thì thông dịch lại. Thanh im lặng không nói gì cả. Còn Phong thìhỏi những câu hỏi như cách chữa trị, có thể sống bao lâu nữa…

Tôi trả lời những câu hỏi nầy cho Phong, còn Thanh thì vẫn tiếp tục yên lặng.Khi Ted đi rồi thì Thanh hỏi tôi.

- Ung thư phổi thì từ đâu mà ra vậy, Dr. V?

- Cũng có nhiều nguyên do. Có thể do môi trường mình sống, gia truyền, miễn nhiễm,chất hoá học. Phần lớn là do thuốc lá mà ra.

- Như vậy cai thuốc lá có khó lắm không? Tôi cũng muốn bỏ cái thói quen nầynhưng thấy khó quá.

- Cũng không khó lắm. Nếu anh muốn thì chúng tôi sẽ chỉ cách cho anh nhe.

- Phải chi hồi đó tôi cai thuốc lá sớm thì có thể tôi không bị ung thư phổi phảikhông Dr. V? Thanh nói.

- Cũng có thể lắm. Nhưng bây giờ anh đã bị rồi, thì cũng nên chú trọng với thựctế để tìm cách chữa trị nhe.

- Như bệnh ung thư của tôi thì Dr. V nghĩ là tôi sẽ sống được bao lâu nữa? Xinhãy thành thật mà trả lời.

- Thật ra thì khó nói lắm. Ung thư loại tế bào nầy rất là nguy hiểm và khó trị.Tôi trả lời một cách thành thật.

Thanh im lặng. Tôi thấy có những giọt nước mắt ứa ra ở khoé mắt của anh. Anhkhóc âm thầm.

Tôi đi ra bên ngoài để tránh cho anh nhìn thấy mình cũng đang khóc. Tôi khócthương cho số phận một con người với những chuổi đời thăng trầm theo vận nước nổitrôi. Tôi khóc thương cho Thanh và cũng hình như khóc thương cho chính mình.

Khi tôi trở lại thì Phong đã đi về, chỉ còn một mình bệnh nhân nằm, cái hìnhbóng nhỏ nhoi trông thật tội nghiệp nằm im trên tấm khăn trải giường trắng mướt.Nghe tiếng động, Thanh quay lại và ánh mắt sáng lên khi nhận ra tôi. Tôi bây giờkhông đeo chiếc mask nữa vì biết rằng sau cuộc thử nghiệm anh không bị lao phổimà bị những tế bào gây ung thư phổi.

- Dr. V đó à, tôi cũng muốn nói chuyện với Dr. V một chút. Dr. V có thì giờ đểtôi nói chuyện không?

- Tôi có nhiều giờ lắm. Anh Thanh cứ nói đi. Tôi đáp lời.

- Cuộc đời tôi bây giờ có hai nguyện vọng. Thứ nhất là gặp được con gái tôi saumười mấy năm xa cách. Còn nguyện vọng thứ hai thì mong manh lắm, tôi chắc sẽkhông thành đâu. Thanh ngập ngừng.

- Lần cuối anh gặp con gái ở đâu và bao lâu rồi? Tôi hỏi.

- Khoảng chừng 10 năm. Tôi lập gia đình khi gặp vợ tôi 15 năm về trước. Nànglúc ấy có một vẻ đẹp u buồn, giống như người con gái mà ngày xưa tôi đã gặp.Sau 5 năm thì tình cảm giữa chúng tôi phôi pha. Cũng không hiểu tại sao. Chúngtôi lúc đó ở San Jose, nàng theo đạo Công Giáo và có gia đình thân quyến ở đây.Hơn mười mấy năm không liên lạc, tôi nghĩ là họ không còn ở đó nữa đâu. Thanhnói.

- Còn nguyện vọng thứ hai của anh là gì? Tôi hỏi.

Thanh ngập ngừng không nói. Tôi cũng không ép Thanh làm gì.

oOo

Tối đó, khi về nhà tôi liên lạc với ông anh tinh thần tên Peter đang làm việc ởLos Angeles. Nói là anh chứ thật ra ông ấy là linh mục của một giáo phận CôngGiáo ở vùng Riverside.

Sau khi nghe chuyện xong, linh mục Peter bảo tôi hãy yên tâm để ảnh liên lạcgiúp tìm vợ con anh Thanh. Hai ngày sau, cha Peter gọi lại báo tin đã tìm đượchọ rồi. Số là, cha Peter có điện thoại về địa phận Công Giáo vùng San Jose vànói chuyện cùng cha xứ ở đó. May mắn thay vợ của Thanh còn một bà mẹ ở xứ đạo nầyvà cha xứ đã nói chuyện cùng bà ấy về việc Thanh muốn gặp lại vợ con mình.

Hằng ngày tôi vẫn đến thăm Thanh. Thời kỳ nầy anh đang được chữa trị bằng hoátrị. Anh cũng bị những phản ứng phụ như ói mửa, buồn nôn, đi tiêu chảy và tiểucầu cùng hồng huyết cầu bị xuống thấp nên phải tiếp huyết cùng chuyển tiểu cầu.Thanh vẫn buồn bã và thỉnh thoảng tôi thấy Thanh khóc. Còn người thì hốc hác đinhiều. Tôi không nói cho Thanh biết về vụ vợ con Thanh, để tránh cho Thanh khỏithất vọng, nếu không gặp được vợ con mình. Thanh cũng không nói nguyện vọng thứhai của anh là như thế nào.

Sau đó một tuần, một buổi chiều tôi ghé thăm Thanh. Qua cửa sổ kiếng của phòng,tôi thấy có hai người đang quây quần kế bên anh. Một người đàn bà có vẻ như làvợ của anh và một cô bé chừng 15-16 tuổi. Tôi đoán chắc là vợ con của anh.Thanh ngó ra và tôi đã thấy ánh mắt của anh. Ánh mắt vừa tỏ vẻ biết ơn nhưng lạiđượm buồn thêm một chút gì u uẩn nào khác nữa. Tôi mỉm cười và giơ tay lênchào. Anh gật đầu và cũng mỉm cười lại.

Tối hôm ấy, tôi không ghé thăm Thanh như thường lệ, nhưng trong lòng tôi rấtvui mừng, vì biết rằng Thanh đã tìm được vợ con của mình. Tình cảnh đã thay đổivào lúc cuối đời rồi, Thanh cũng nên hoà giải để tâm hồn được an vui và thanhthản một chút. Tôi thầm nghĩ như vậy.

oOo

Chiều hôm sau, tôi ghé qua thăm Thanh thì phòng nay đã trống. Cô trưởng toán điềudưỡng ở khu nầy đến gặp tôi báo là Thanh đã đi về San Jose với vợ con mình vànhờ trao cho tôi một cái túi xách bằng nhựa. Bên trong túi xách nầy có một cáitúi xách Pan Am mà tôi đã thấy khi Thanh mới vào nhà thương nơi phòng cứu cấp.Mở cái túi xách Pan Am ra thì trong đó có một túi đồ. Tôi vội mở túi đồ ra thìcó một lá thơ và một cái mũ màu ngà đã sờn mòn nứt nẻ nhiều nơi. Tay run runtôi cầm mở rộng cái mũ cũ nầy ra. Vành mũ bên trong có 5 chữ viết bằng mực xanhmà nay tuy nét mực đã mờ loang lổ nhiều nơi, nhưng tôi vẫn nhận ra là nét chữvà tên của mình.

Chuyện gì đây?

Sao cái mũ nầy lại ở đây?

Trời ơi thật khó hiểu quá. Tôi không tự chủ nổi, vội ngồi bệt xuống cạnh cầuthang máy và mở lá thư của Thanh ra đọc.

V thân mến,

Rất ngạc nhiên phải không V khi nhận lá thư nầy. Xin lỗi V cho Thanh được gọitên Dr. V một cách thân mật nhe. Mình đã học chung với nhau ở Đại Học Khoa Họcmà V vô tình không còn nhớ Thanh nữa đó V. Thanh là người hay ngồi đàng saulưng của V khi mình học môn Sinh Lý Sinh Hoá của bà Phiêu (vợ Bác Sĩ Trần NguơnPhiêu) dạy.

Có nhiều lần Thanh định làm quen với V nhưng không có cơ hội. Một hôm tình cờthấy V bỏ quên cái nón (mũ) của Vi ở trong trường Thanh đã lấy về. Rồi mấy lầnđịnh trao lại cho V nhưng không đành lòng. Thôi thì cứ giữ một chút gì của V đểmình thương nhớ.

Cả đời Thanh đã mang cái nón của V theo mình hơn 40 năm. V ơi, chiếc nón nầy đãvào sinh ra tử với Thanh khắp bốn vùng chiến thuật, đã trải qua những thăng trầmdâu bể cuộc đời. Thật ra thì Thanh cũng rất hạnh phúc vì lúc nào cũng có cảm tưởnglà V đang ở cạnh mình.

Hôm Thanh từ giã trường lớp để đi Thủ Đức, có viết thư giã từ với V và xin gặpV một lần. Thanh đợi suốt cả buổi sáng nhưng không thấy V đến. Khi có dịp thìThanh cũng cố tìm V nhưng V đã biệt tích rồi. Nghe phong phanh bạn bè nói là Vđã chết rồi. Thanh thì không bao giờ tin như vậy.

Ngay ngày đầu vào nhà thương, Thanh đã nhận ra V liền dù thời gian có làm Vthay đổi, nhưng ánh mắt và nụ cười của V không khác xưa. Định nói ra cho V rõnhưng lại thôi. Mọi sự đã muộn màng rồi. Nói ra chỉ làm bận lòng người bạn củamình.

Bây giờ Thanh xin trao lại chiếc nón này cho chủ cũ của nó. Lòng của Thanh cũngrất thanh thản vì cuối đời được gặp lại V. Lại được V chăm sóc mấy tuần lễ nayrất chu đáo và có dịp nói chuyện với nhau như hai người bạn thân thiết ngàyxưa.

Cảm ơn V đã lo lắng và chăm sóc Thanh mấy tuần lễ qua. Cũng xin cảm ơn V đãgiúp tìm lại con gái của Thanh. Thanh bây giờ xin trao trả lại cái nón cho chủcũ của nó.

Tất cả tâm tình của Thanh trong mấy chục năm qua cũng xin gửi lại V. Xin V nhậnvì đây là nguyện vọng thứ hai và cuối cùng của Thanh.

Vĩnh biệt nhe.

Thanh

Nước mắt tôi đã rơi ướt đẫm trên thư của Thanh hồi nào tôi cũng không biết. Thậtlà cả một chân tình mà tôi vô tình không rõ.

Nếu Thanh biết rằng năm xưa, khi nhận được thư của Thanh, dù không biết Thanhlà ai, tôi cũng đã bâng khuâng, nửa muốn đến gặp người bạn nầy trước khi anhlên đường nhập ngũ, nửa lại ngại ngùng. Nhưng giờ cuối cùng thì tôi có đến chỗThanh đã hẹn, nhưng đã muộn vì xe cam-nhông đã chuyển bánh trên đường vào Thủ Đức.Nếu biết vậy thì Thanh cũng có phần nào an ủi. Thôi cũng là số mệnh!

Và trời ơi! Bây giờ tôi lại mất đi thêm một người bạn cho cái bệnh ung thư quỷquái này nữa rồi. Cả đời tôi đã làm việc không biết mệt để đem một chút gì hiểubiết về ung thư ra chia sẻ cho người đời qua những buổi thuyết trình, hướng dẩn,hỗ trợ để ngăn ngừa hay tìm kiếm ung thư sớm.

Phải chi tôi gặp lại Thanh sớm hơn để có dịp khuyên Thanh nên ngừng hút thuốc,để tìm kiếm bệnh này sớm thì biết đâu Thanh sẽ không đến nỗi phải bó tay nhưbây giờ. Phải chi... phải chi…

Cả một nỗi niềm hối tiếc ân hận nặng trĩu trong lòng tôi. Tôi biết cuộc hànhtrình để tìm kiếm và diệt trừ ung thư của tôi vẫn còn dài đăng đẳng không biếtbao giờ cho xong.

oOo

Ở trên đời có những mối tình như cơn lốc, khi qua rồi thì để lại những tàn pháđau thương. Cũng có những mối tình đơn phương, nhẹ nhàng, thâm trầm và sâu sắcđể lại cho tâm hồn tràn đầy những kỷ niệm như những hương xưa, những kỷ vật đơnsơ, những lời thơ mộc mạc, những nụ cười bâng khuâng, hay một bản nhạc thântình. Xin hãy trân quý gìn giữ những mối tình nầy, vì tất cả có thể làm chochúng ta cảm thấy hạnh phúc và ấm áp cõi lòng, vì biết rằng đâu đó trên cõi đờinày, có một người nào đó lúc nào cũng nhớ và yêu thương mình. Khi có dịp để lolắng cho nhau thì cũng nên hết lòng hỗ trợ để biết đâu mình có thể duy trì sứckhoẻ hay mạng sống cho những người thân mến này.

Tôi đang trầm ngâm suy nghĩ thì có tiếng gõ cửa phòng và giọng Jenny:

- Dr. V, có một cô bệnh nhân mới đến phòng số 32, 43 tuổi, người Việt, bị ungthư ngực tới thời kỳ thứ 4, xin Dr. V giúp tụi em một chút nhe. Jenny năn nĩ.

- Được Jenny, tôi sẽ đến liền. Tôi trả lời.

Lại thêm một ngày nữa và đời sống mọi người cứ đi vòng quanh như vậy, theo nhữnglối đi mà định mệnh đã an bài. Như nước của những dòng sông cứ theo phương hướngđã định trước mà tụ tập về lòng đại dương. Thôi thì ta hãy an vui với số phận củamình, hãy tiếp tục cuộc hành trình mà mình đã chọn lựa, và cứ ấp ủ những mốitình mà mình đã có trong tâm hồn, vì đó là những nguồn hạnh phúc mà không ai lấyđi được. Tôi thầm nhủ, với những hành trình dài và gập ghềnh trong cuộc sống màmình còn giữ được những tâm tình như vậy thật không phải là may mắn lắm sao?

Sài Gòn, Hạ Trắng,

tháng Sáu, 2013

Võ Quách Thị Tường Vi

Ý kiến bạn đọc
14/02/201408:00:00
Khách
Truyện hay và cảm động quá. Cảm ơn tác giả nhiều
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 4,959,308
Với bài viết tựa đề “Viện Dưỡng lão và Viện Mồ Côi”, Trần Thiện Phi Hùng có tên trong danh sách nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; 12 năm 4 tháng đúng, tính đến ngày 30 tháng Tư 75, tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Bài mơi nhất của ông, vẫn với chi tiết về nhà hộ sinh và viện dưỡng lão như từng kể, nhưng gần như quay một vòng 360 độ, biến thành một câu chuyện khác hẳn.
Orchid Thanh Lê sinh trưởng tại Sài Gòn, định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997. Hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ tại Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California.
Hai tuần nữa mới Tết, nhưng đã tới lúc lo thức ăn cho ngày Tết sắp tới. Tác giả Nguyễn Viết Tân, thành viên Ban Tuyển Chọn Chung Kết, muốn chia xẻ với bạn...
Tác giả tên thật: Nông Phiên; Sinh năm 1965 tại Sài gòn. Giáo viên Sư phạm Kỹ Thuật. Công việc hiện tại: Electro-mechanic Technician. Năm 2012, Phi Yên có bài viết về nước Mỹ đầu tiên: một tự sự linh hoạt về công việc lưu trữ ngũ cốc tại Mỹ, lần đầu được đề cập bởi người gốc Việt. Sau hai năm không viết thêm, sau đây là bài mới. Mong tác giả tiếp tục.
Chú Sáu Steve Brown là bút hiện của Steve Brown, một cựu chiến binh Mỹ từng đóng quân ở Biên Hoà và kết hôn với một phụ nữ Việt. Viết về nước Mỹ, ngày 18 -12-2012 đã phổ biến bài viết trực tiếp bằng tiếng Việt đầu tiên của ông, kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và một cô gái Việt.
Tác giả lần đầu dự Viêt Về Nước Mỹ. Bài đầu tiên được ghi là “viết thay lời cầu nguyện cho các linh hồn đã bỏ mình trên đường đi tìm Tự Do và riêng cho bạn tôi”. Mong Phạm Ngọc sẽ tiếp tục viết.
Tác giả sinh năm1949, định cư tại Mỹ theo diện HO năm 1991. Nghề nghiệp trước 75: dạy học. Công việc làm ở Mỹ: du lịch. Hiện đã hưu trí và là cư dân vùng Little Saigon, Westminster, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà năm 2013 là "Kock and Me / Vi trùng lao và Tôi." Và liên tiếp cho thấy sức viết nhanh, viết mạnh. Xin mời đọc bài viết thứ mười một của bà.
Thạnh Hoà là bút hiệu mới của một tác giả từng có bài tham dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Sau đây là bài đầu tiên khai trương bút hiệu mới của ông.
Bài viết mới của tác giả cho Tết đang đến. Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh trước 1975, đã có nhiều chuyện ngắn, truyện dài do tạp chí và nhà xuất bản Tuổi Hoa ấn hành tại Saigon. Sau tháng 4/1975, cô không viết, chỉ chuyên làm công tác nghiên cứu khoa học. Định cư tại San Jose từ 2003, Cam Li bắt đầu góp bài cho Việt Báo từ 2009 và đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ 2010.
Tác giả sinh năm 1940, cựu sĩ quan VNCH, khoá 12 SVSQ Thủ Đức, cựu tù chính trị, đến Mỹ năm 1991 theo diện H.O. 9, hiện định cư tại Greenville, South Carolina, tham dự Viết Về nước Mỹ từ 2002. Tác phẩm đã xuất bản: Hành Trình Về Phương Đông. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.