Tác giả: Nguyễn Hữu Thời
Bài số 4014-14-29414vb4091813Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ được mọi người quí
trọng. Ông góp bài từ năm đầu, đã nhận giải Danh Dự, và suốt 14 năm
qua vẫn đều đặc sinh hoạt và hỗ trợ giải thưởng Việt Báo. Trước
1975, Nguyễn Hữu Thời là nhà giáo rồi sĩ quan VNCH. Định cư tại Hoa
Kỳ, ông là một chuyên viên điện toán, hiện đã về hưu. Mong ông luôn vui
khoẻ và tiếp tục góp bài.* * *
Chín Dẫm vừa đi làm về, mở cửa vào nhà liền thấy con Nancy, mười
sáu tuổi, con gái đời chồng trước của chị Chín đang ngồi gác hai
chân lên cái “coffee table’ chăm chú, thoải mái xem trên màn ảnh truyền
hình phim tình cảm ướt át, có nhiều cảnh “hôn hít, cụp lạc” ồn ào
mà tuổi như nó chưa được phép xem. Phim đó chỉ dành cho người lớn,
tuổi trên hai mươi mốt. Anh lên tiếng cảnh báo:
“Đi học về, con không lo dọn dẹp nhà cửa giúp mẹ, rồi vào phòng học
bài, làm bài tập, ở đó mà ngồi xem những phim bậy bạ như vậy đó!
Vừa mất thời giờ vô ích, vừa làm phân tâm chuyện học hành.”
Nó ngước nhìn anh Chín với đôi mắt bất cần như nhìn người xa lạ,
nét mặt tỉnh bơ, nín thinh, xem như không nghe thấy lời nói của cha
ghẻ, và vẫn tiếp tục xem phim. Từ khi nó lên mười sáu tuổi, học lớp
Mười, tính nết nó bắt đầu thay đổi, không xem lời anh Chín dạy dỗ ra
làm sao cả. Mỗi lần có sự đụng chạm với anh như chiều nay, nó chờ
mẹ đi làm về, xong hai mẹ con thường rù rì, to nhỏ với nhau cả mấy
tiếng đồng hồ trong phòng riêng, tới bửa không thấy cơm nước gì cả.
Anh Chín phải xuống bếp tự nấu cơm. Anh ăn quấy quá cho qua bữa, rồi
vào phòng nghỉ. Không khí gia đình thật là căn thẳng. Vợ chồng chỉ
nhìn nhau mà không nói, không chào hỏi nhau một lời, giống như chiến
tranh lạnh giữa Nga Mỹ hồi thập niên 70.
Cách đây ba tháng, hai vợ chồng anh có chuyện xích mích, cải nhau to
tiếng chỉ vì chị Chín nghi ngờ anh rút hết tiền saving đem cho con
gái anh với người vợ trước đã mất từ mười hai năm nay. Mặc dù, anh
hết lòng giải thích là anh chỉ rút ra một ít giúp đứa cháu ngoại
đang bị bệnh nan y mà con gái anh lo không đủ để trả tiền “ Co- Pay”
cho dịch vụ bảo hiệm y tế qúa nặng. Rể anh bị laid off đã gần hai
năm rồi, ăn tiền thất nghiệp đã hết mà tìm việc vẫn chưa ra. Căn nhà
có ba phòng, chị Chín dọn qua ở nơi phòng bỏ trống từ hôm xảy ra
chuyện cải vả, trách móc. Thỉnh thoảng chị qua ngủ nơi phòng Nancy.
Họ là vợ chồng chắp nối, gặp nhau trong một trường hợp thật đặc
biệt. Sau khi người vợ anh mất được mấy năm, anh về thăm quê củ ở Trà
Vinh, Việt Nam. Trong một dịp đến thăm người bạn thân nhau từ thời thơ
ấu, anh gặp chị Chín, tên cúng cơm là Mén; dắt bé Nancy lúc ấy lên
ba tuổi từ nhà bên cạnh sang chơi. Trong câu chuyện, anh biết cô Mén
vừa mới bị chồng bỏ rơi. Mẹ con đang bơ vơ không nơi nương tưạ, không
biết cuộc sống tương lai ra sao. Gần một tháng trời lưu lại Việt Nam,
anh càng biết rõ hơn. Hồi năm 1990, cô Mén vừa tròn hai mươi, có nhan
sắc mặn mà, được Ba Tẩm, cán bộ Đảng từ Lũng Nha ngoài Bắc đổi
vào công tác trong Nam; gá nghĩa phu thê. Cô tưởng đâu là gặp được
phước lớn, trúng số cá cặp, trúng số đề lớn, cô cho là mình may
mắn hơn những người bạn cùng lứa tuổi, cùng quê phải gá thân cho Tàu
Đài Loan, Tàu đại lục hay Nam hàn, ngôn ngữ bất đồng; nhưng vì cuộc
sống quá nghèo khổ, bi đát của gia đình, họ phải âm thầm nhắm mắt
đưa chân, hy vọng mong manh có ngày tươi sáng hơn. Mén sung sướng thầm
nghĩ rằng: Dù gì Ba Tẩm cũng là người Việtnam, cùng ngôn ngữ, phong
tục, tập quán nên vui vẻ trao thân con gái cho hắn, kềt nghĩa trăm năm,
và dọn về ở với hắn trong căn nhà khá tiện nghi mà bọn cầm quyền
cọng sản địa phương cướp của một gia đình Sĩ quan VNCH bị cầm tù
ngoài Bắc, và đã bỏ xác nơi cái gọi là “trại cải tạo” trong dãy
nuí Hoàng Liên Sơn, Bắc Việt. Vợ con người Sĩ quan bạc phước nầy bị
chúng cưỡng ép đi vùng kinh tế mới, không rõ sống chết thế nào.
Những tên Việt Cộng từ ngòai Bắc vào Nam làm việc, tên nào cũng có
bà vợ Bắc dữ dằn với đàn con ngổ ngáo ở ngoài quê; nhưng chúng cố
dấu đi để kiếm gái đẹp trong Nam, xây phòng hai, phòng ba. Bọn nầy đa
phần là có gan ăn vụng nhưng không có gan chịu đòn. Chúng đốn được
nhưng không vác được. Thường thì sau một thời hưởng thu, là bọn chúng
cao chạy, xa bay, quất ngựa truy phong; nhưng riêng Ba Tẩm còn tiếc nuối
cái sắc đẹp trời cho của Mén, và “gái một con trông mòn con mắt”.
Thêm nữa, Mén giỏi dang, cơm bưng nước rót, lại có tài nấu nướng, may
vá, thêu thùa; nên hắn còn nấn ná kéo dài thêm thời gian hưởng thụ,
rồi tới đâu hay tới đó.
Ba Tẩm xây phòng hai được hai năm, và có với Mén bé Nở (Nancy) lên hai
tuổi. Nhưng không may cho hắn, bỗng nhiên, bà vợ cả từ ngoài Bắc thình
lình xuất hiện. Khi hay tin chồng lập phòng hai, bà Kén từ Lũng Nha
ngoài Bắc lặn lội dẫn đàn con đi tìm chồng. Khi ả phát giác ra tổ
uyên ương của Ba Tẩm, ả liền cho anh chồng một trân nên thân, và ả đần
Mén một trận thừa sống, thiếu chết, thương tích đầy người. Bọn công
an địa phương không thấy can thiệp, xử lý.Trước khi bỏ đi, ả còn đưa
ra những lời hăm dọa khiếp đảm, sẽ thuê bọn xã hội đen giết chết
Mén hay sẽ bị tạt ác xít, nếu Mén còn dây dưa với chồng ả, bà ta không
coi luật lệ ra làm sao cả. Sau hôm xảy ra chuyện đánh ghen, Ba Tẩm
lặng lẽ xin đổi về Bắc, và biệt tăm từ đó; bỏ rơi mẹ con cô Mén
không một chút thương tiếc, không đoái hoài đến!
Biết rõ hoàn cảnh của Mén, Chín Dẫm rất áy náy, và tỏ ra thương
xót vô cùng! Anh ra tay nghĩa hiệp hết lòng giúp đỡ vật chất, và an
ủi tinh thần suy sụp khá nặng nề của Mén. Cô Mén gặp được anh Chín
như nắng hạn lâu ngày gặp mưa. Như người mù được bác sĩ chửa sáng
mắt ra, như kẻ đắm thuyền giữa biển khơi vớ được mãnh ván đang trôi
lềnh bềnh bên cạnh. Chuyện gì đến sẽ đến trong những tháng ngày sau
đó giữa anh và Mén, cả tốt lẫn xấu có thể xảy ra.
Anh trở lại Mỹ, và làm giấy tờ bảo lãnh mẹ con Mén theo diện hôn
nhân đoàn tụ theo chồng. Bé Nancy được anh Chín nuôi dưỡng như là con
mình sinh ra. Anh săn sóc bé thật chu đáo. Nhiều lần chị Chín bận
việc, anh phải tắm rửa, thay quần áo cho nó, pha sửa, mớm cơm. Anh
bồng bế, nựng nịu, hôn hít nó mỗi khi anh đi làm về. Anh dẫn dắt bé
Nancy đị học mẫu giáo và đón nó về trong tình cha con thật là thắm
thiết thương yêu. Tuy đã lên năm, có những đêm nó vào ngủ chung với vợ
chồng anh. Anh dạy dỗ nó rất cẩn thận. Có những lúc rảnh rỗi, anh
ngồi choàng vai nó nơi ghế xa-lông cùng xem truyền hình những đài
Việtnam để cho nó luyện thêm tiếng Việt, và giảng giãi cho nó những
chữ Việt nó không hiểu. Nhiều lúc anh quên đi nó chỉ là con riêng của
chị Mén.
Nancy càng lớn càng trổ mã, tuổi mười sáu dậy thì. Nó có thằng
bạn trai gốc Âu châu, học cùng trường trên nó hai lớp, và sắp tốt
nghiệp trung học, hắn thường rủ rê Nancy đi chơi trong những ngày cuối
tuần. Có đêm Nancy (Nở) không ngủ ở nhà. Chị Chín vì quá chìu
chuộng con gái nên không bao giờ đụng đến. Trái lại, Chín Dẫm thường
dạy dỗ, la rầy nó như lúc còn bé. Nancy đem câu chuyện ông cha ghẻ
đối xử, cấm đoán mình như vậy tâm sự với người bạn trai, và cho
rằng cha ghẻ qúa cay nghiệt, xâm phạn sự tự do của nó, cư xử không
tốt với nó. Tên Ken nghĩ ra cách làm cho bạn gái vừa lòng, lại thêm
có lợi cho hắn là khi đến rủ rê Nancy đi chơi qua đêm, không bị ông cha
ghẻ rầy la, cấm cản. Ken phải làm cho anh Chín phải ngồi tù. Y bày
vẽ cho Nancy:
“You biết rằng ở xã hội Mỹ nầy, chuyện molesting trẻ em và child
abuse, sexual harassement thường xảy ra, và luật pháp Mỹ xử rất nặng
những kẻ phạm tội. You làm đơn thưa ông cha ghẻ you về những tội trên.
Ông ấy ngồi tù, chúng ta sẽ tự do vui vẻ đi chơi thỏai mái.”
Chị Chín biết chuyện nhưng không cản trở vì vợ chồng đã xích mích
từ lâu, đồng sàng dị mộng, và cho rằng anh Chín quá khắc nghiệt với
con riêng của mình nên không ngăn. Cảnh sát bắt Chín Dẫm, và truy tố
ra tòa về tội molesting, child abuse, sexual harassement. Nhân chứng là
tên Ken. Những ngày tạm giam trong sở cảnh sát, chín Dẫm thấy nỗi oan
của mình không sao giãi bày được.
Nhưng ở đời, ở hiền gặp lành, sau cơn mưa trời lại sáng. Anh có
người bạn thân là Tám Thi, hiện là thông dịch viên tòa án, biết rõ
mọi việc oan ức của Dẫm nên nhờ luật sư Jenny N. bào chửa tại tòa.
Luật sư Jenny N., người Mỹ gốc Việt. Khi theo cha mẹ tỵ nạn cọng sản
sang Mỹ hồi năm 1975, cô mới có bốn tháng tuổi. Điều ngạc nhiên, bây
giờ cô rất thông thạo tiếng Việt cả đọc, viết, và nói. Được như
vậy, là hồi còn nhỏ, sau giờ học ở trường, cô được cha mẹ chở đến
học tiếng Việt ở các Trung tâm Việt ngữ, các chùa chiền, nhà thờ
của những người tỵ nạn cộng sản Việt nam mở ra khắp nơi. Các Thầy
Cô ở đây rất tận tâm dạy dỗ tiếng Việt; nên luật sư Jenny có một
trình độ tiếng Viêt không thua gì người Việt nam có học đã trưởng
thành. Lại thêm, hằng ngày ở nhà cha mẹ cô nói tiếng Việt với cô,
dạy thêm tiếng Viêt cho cô, và thường hướng dẫn, giảng giải các phong
tục, tập quán, và văn hóa của người Việt. Cô trình bày trước Tòa:
“Thưa ông Chánh án và quí vị trong bồi thẩm đoàn. Văn hóa và phong
tục Việt nam là khi làm cha mẹ, ông bà, họ hết lòng thương yêu con
cái. Họ thường âu yếm, săn sóc trẻ thật chu đáo. Chuyện hôn hít, ẵm
bồng, nâng niu khi bé còn nhỏ là chuyện bình thường. Khi bé lớn lên,
những chuyện trên không còn nữa, nhưng họ vẫn tiếp tục giúp đỡ khi
con cái đã lập gia đình. Họ hy sinh cả thời gian nghỉ dưỡng tuổi
già, họ sẵn sàng giúp con cái, săn sóc các cháu nội ngọai như đưa
chúng đi học, baby-sitter, mớm cơm, pha sửa. Có khi còn nấu nướng cho
con cái dùng bửa nữa. Có rất ít trường hợp molesting hay sexual
harassement xảy ra trong những gia đình Việt nam; nhưng có chăng đi nữa
chỉ là những kẻ có bịnh tâm thần, không bình thường. Thân chủ tôi là
người bình thường, không có bệnh thâm thần. Ông ta là người đầy lòng
nhân ái luôn luôn giúp đỡ những người “sa cơ lỡ bước” bằng chứng là
đã giúp đỡ mẹ con cô Mén khi còn ở Việt nam. Sau khi bị người chồng
trước bỏ rơi, cô Mén (mẹ nguyên đơn) đã nhiều lần quyên sinh; nhưng
được thân chủ tôi cứu thoát, anh ta đã ra tay nghĩa hiệp hết lòng
giúp đỡ, và kết thành vợ chồng với mẹ nguyên đơn, bảo lãnh mẹ con
họ đến đây, nuôi nấng, dạy dỗ cô Nancy để thành người hữu dụng.
Chuyện Nancy nghe lời bạn trai xúi bẩy thưa thân chủ tôi tại toà là
chuyện vu cáo, không có bằng chứng xác thực, không cấu thành tội
trạng. Hơn nữa, tập tục, văn hóa của người Việt không bao giờ xảy ra
những tội phạm như đã nói trên.”
Sau khi toà nghị án, chin Dẫm được Tòa tha bổng vì không đủ yếu tố
buộc tội; nhưng có một điều buồn cho anh, một tháng sau, cô Mén ly dị
anh, và đem bé Nancy đến lập nghiệp ở tiểu bang miền Đông Hoa Kỳ.
Nguyễn Hữu Thời