Cua Rốc Đến Mỹ
Tác giả: Nguyễn Viết Tân
Bài số 2965-28265-vb3081710
Nguyễn Viết Tân là tác giả vừa nhận giải Việt Bút 2010. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việt Báo Online, tìm theo "Danh Mục Tác Giả" phía tay trái của trang, sẽ thấy trong 10 năm Viết Về Nước Mỹ, có 12 bài viết với bút hiệu Tân Ngố và 15 bài viết với tên thật Nguyễn Viết Tân. Tham dự Giải thưởng Việt Báo từ năm đầu, ông nhận giải bán kết năm 2001 với bút hiệu Tân Ngố, bài "Bên Bờ Freeway". Suốt 10 năm qua, tác giả liên tục góp thêm nhiều bài viết giá trị, gắn bó với giải thưởng và trở thành một tác giả huynh trưởng được mọi người quí trọng. Bên cạnh những du ký sống động về nhiều địa phương tại nước Mỹ, ông cũng viết những truyện ký đặc biệt về đất lề quê thói của miền Nam trước và sau cuộc đổi đời. Những bài viết giá trị này đã xuất bản thành sách "Chuyện Miền Thôn Dã," rất được bà con hâm mộ. Trước 1975, Nguyễn Viết Tân phục vụ tại Phi Đoàn 253 Sói Thần, Đà Nẵng. Định cư tại Mỹ, như đã kể trong bài "Bên Bờ Free Way", ông từng thầu landscaping cho freeway tại vùng Nam Cali và hiện cùng bạn hữu làm một công ty xây cất. Sinh năm 1950, sang năm 2010, ông tự mô tả mình là vào tuổi ngũ tuần, căn cứ theo lối tính "chục 12" của miệt vườn miền Nam. Giải Việt Bút là một giải mới lập từ 2007, để vinh danh các tác giả từng nhận giải thưởng nhưng vẫn tiếp tục viết và vượt được chính mình . Các tác giả đã nhận giải Việt Bút gồm Lê Tường Vi, Bồ Tùng Ma, Trần Nguyên Đán và năm nay là Nguyễn Viết Tân. Xin đọc bài mới nhất của tác giả giải Việt Bút 2010.
***
Cách đây ít lâu, tác giả Khánh Vân có kể chuyện anh chị Hai Lúa đến Mỹ, hôm nay tôi xin kể chuyện con cua rốc, còn thấp hơn Hai Lúa rất nhiều, chúng chỉ bò dưới chân cây lúa mà thôi. Ấy vậy mà nó mới đường hoàng vượt trùng dương tới Mỹ đó.
Cả nước Việt Nam, bây giờ chẳng ai còn lạ gì món riêu cua. Nó là kết quả của vài chục con cua rốc, bỏ vô cối giã bát bấy bậy, lược lấy nước để nấu với rau đay, mồng tơi hay nấu chung với cà chua và hành lá, làm thành nồi bún riêu thơm phức.
Món bún riêu xuất phát từ miền Bắc, cũng giống như món phở vậy, nhưng đây là món ăn quê mùa, không "sang" như phở, nhất là sau khi bỏ vào rau ghém, bắp chuối, rau muống chẻ, dấp cá, tía tô, kinh giới, lại phết thêm một cục mắm tôm lên trên cùng coi lại càng quê kệch.
Trong khi ngoài Bắc một nồi riêu cua chỉ dám giã chừng vài chục con, thì trong Nam cua bò đầy đồng ruộng, mương đìa mà không ai thèm ăn.
Cua rốc còn được gọi là cua đồng, thịt không nhiều như cua biển, lại cứng không thể ram lên để ăn cả vỏ như con rạm, con còng hay làm mắm như ba khiá, nên có thấy nó bò lổm ngổn người ta cũng mặc kệ chẳng ai thèm đoái hoài.
Đời con cua rốc bỗng lên hương khi cả triệu người Bắc di cư vào Nam hồi 1954.
Hồi ấy có rất nhiều trại Dinh Điền được mở ra ở Mộc Hoá và Cái Sắn thuộc vùng Lục Tỉnh, và ở nơi này thì cua rốc đầy đồng.
Tôi nhớ ngày còn nhỏ mỗi khi tháng tư tháng năm, mưa dào dẫn làm cánh đồng ngập nước, thì cua rốc bò tràn lan trên ruộng đầy gốc rạ và rau muống, có những con cua đực với một càng khều khào to như ngón tay cái, mu ánh lên màu tím trông rất đẹp.
Đến mùa nước rút gần Noel, mỗi buổi sáng đi đổ đó thì trong xời đầy nhóc tép ruộng và cua rốc.
Những tháng khác, cua đào hang để trốn thì bọn trẻ nhỏ đi dọc bờ ruộng dùng một cái nèo, thọc vào hang mà bắt cua.
Trong thôn xóm cứ khoảng 11g sáng là đó đây vang lên tiếng cum cum, tiếng giã cua trong những chiếc nón sắt nhà binh đã cũ, rồi sau đó khói lam uốn éo bốc lên từ những mái tranh nghèo.
Khi người Nam bắt đầu biết ăn riêu cua thì không còn rẻ nữa, bởi vì cua được đóng thành từng bao bố tời, từ miền Tây chở lên phân phối từ chợ ngã ba Ông Tạ, Xóm Mới cho tới miền Hố Nai, Xuân Lộc Long Khánh, cho chí cả tới Phương Lâm, Đà Lạt, Lâm Đồng, cứ nơi nào có Bắc Kỳ di cư là cua rốc xấn tới lấn đất giành dân.
Tuy bị đóng cứng ngắc trong bao như thế, mà con cua vẫn "sống vui, sống khoẻ, sống bất tận" (y như câu quảng cáo trong một chương trình y tế của Radio quận Cam hiện nay).
Cua rốc chỉ lớn bằng nửa lòng bàn tay, bằng con ghẹ xanh thôi nhưng thân hình mập mạp, mu dầy hơn ghẹ rất nhiều. Đến mùa khô, trên đồng không còn giọt nước, đất nứt nẻ, nó đào hang sâu đến tận đất sét, không ăn uống gì suốt mấy tháng, thế mà khi mưa xuống, nó leo lên mặt ruộng thì vẫn béo múp míp, thịt mẩy, mu đầy gạch. Có lẽ nó đã ngủ mấy tháng qua như những động vật ngủ giấc "Đông miên".
Tôi nghe kể là con bọ ngựa và cua cái là ác nghiệt nhất. Khi con cua đực lột, thân mình còn mềm nhũn là cua cái bèn xơi tái đức ông chồng, bởi thế khi cua đực lột vỏ, nó dùng đất bít miệng hang lại, gọi là "đùn mà" để tự bảo vệ.
Lớn lên tôi mới thấy rằng người ta đã đổ oan cho cua cái, vì cả cua đực lẫn cái đều vít miệng hang lại khi lột, để chống các loài khác, nhất là rắn và ếch thường xông vào ăn thịt rồi chiếm luôn hang làm chỗ trú ngụ.