Hôm nay,  

My Life

28/09/200900:00:00(Xem: 180839)

My Life<"xml:namespace prefix = o ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:office" />

 

Tác giả: Anthony Hung Cao

Bài số 2740-16208811- vb292809

 

Một ngày cuối Tháng 9-1988, có chàng học trò 19 tuổi,   cùng gia đình gốc quân y VNCH định cư tại vùng Little Saigon theo diện bảo lãnh đoàn tụ. Chỉ sau 7 năm vừa làm vừa học, anh học trò nghèo tốt nghiệp bác sĩ nha khoa.  Đó là trường hợp bác sĩ Anthony Hưng Cao, hiện  hành nghề tại <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />Costa Mesa. Ngoài nghề nghiệp y khoa,  ông còn là người viết văn, soạn nhạc.  Năm 2008, ông nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ. CD đầu tay của ông mang tên "Phượng Đỏ Mùa Đông" hiện đang phát hành khắp nơi. Họp mặt giải thưởng Việt Báo tháng 8 vừa qua, các tác giả tham dự đã cùng nhau hợp ca "Hành Khúc Viết Về Nước Mỹ" do chính ông sáng tác. My Lifelà câu chuyện của chính đời chàng, một chia sẻ quí giá hướng về các thế hệ tương lai.

 

***

 

Lẽ ra tôi đã đặt bút viết lên câu chuyện này từ  tháng Chín năm rồi, đúng hai mươi năm tính từ ngày tôi đặt những bước chân ngỡ ngàng đầu tiên trên đất nước này.  Nhưng rồi cái cảm giác ngại ngùng khi phải viết về cuộc đời của mình cho người khác đọc làm tôi cố tìm nhiều lý do để trì hoãn. "Thôi chắc cuộc đời của mình cũng không khác bao nhiêu người đã trải qua những cuộc sống đắng cay, khổ cực để có ngày hôm nay...".  Bao nhiêu cái "thôi chắc" lý do nhưng không đủ xua đi mặc cảm mỗi khi tôi dở trang báo đọc những câu chuyện của các tác giả viết ra để chia sẻ với người đọc về những gì họ đã trải qua trên bước đường hội nhập vào cuộc sống mới trên đất Mỹ.

Tháng Chín năm nay lại đến, thêm một năm nữa ở quê hương thứ hai.  Những lý do cũ tôi đã dùng để tránh né chuyện viết bài này giờ  đây dường như bị đẩy lui bởi những động lực mới thôi thúc tôi cầm bút viết lên câu chuyện của đời tôi. Đó là những lời hát trong bản Hành Khúc Viết Về Nước Mỹ: "Hãy viết cho mai sau, biết thế hệ ban đầu, đã trải bao gian khó, xây dựng lại tương lai..."   lúc nào cũng văng vẳng bên tai. Rồi một chuyện ngẫu nhiên xảy ra khiến tôi càng có thêm lý do để cầm bút. Chỉ vài ngày trước đây, tôi vinh hạnh có cuộc nói chuyện với Giáo Sư Tiến Sĩ Phạm Thị Huê trên đài Little Sài Gòn T.V. trong chương trình "Trường Học Trường Đời".  Những câu hỏi của Giáo Sư  Huệ  trong suốt buổi nói chuyện đã vô tình làm sống lại trong tôi ký ức những ngày đầu mới bước chân đến Mỹ và ôm sách đến trường trong mùa học đầu tiên. Giáo Sư Huê muốn tôi chia sẻ những gì tôi đã trải qua trong quá trình học để chuẩn bị vào trường Nha khoa lúc đó. Trong suốt buổi nói chuyện, tôi hình dung như có những phụ huynh và các bạn trẻ đang ngồi đâu đó trước mặt, để tôi có dịp chia sẻ những gì tôi đã trải qua từ ngày đầu bước chân vào ngôi trường đại học cộng đồng ở Mỹ.

Thời gian buổi nói chuyện giới hạn nên không cho phép tôi nói hết những điều mình muốn nói. Tuy nhiên sau đó, tôi đã nhận được nhiều email từ một số phụ huynh và một vài bạn trẻ gửi đến, nêu lên những thắc mắc đang gặp trong việc học. Tôi thấy mình tự nhiên bỗng trở thành một counselor bất đắc dĩ, nhưng rất vui khi có cơ hội giúp trả lời thắc mắc của một số người.  Biết đâu những điều nho nhỏ tôi chia sẻ với họ qua trang thư email hôm nay sẽ đem lại một thay đổi lớn cho tương lai mai sau" Một ý nghĩ chợt lóe lên trong tâm trí.  Phải rồi, câu chuyện hôm nay tôi viết không phải chỉ có tác dụng giáo dục cho những đứa con tôi mai sau, mà ngay lúc này đây, khi được phổ biến, hy vọng sẽ có nhiều người đọc để rút ra một ít điều gì đó hữu ích cho riêng mình. Chỉ riêng việc chọn tựa cho bài này cũng làm tôi phải suy nghĩ khá lâu.  Tôi không dám gọi nó là một hồi ký vì nghe có vẻ gì to lớn quá.  Chợt một ý nghĩ thoáng qua trong đầu, "Tại sao mình không lấy tựa đề là "My Life",  như nhan đề cuốn hồi ký nổi tiếng của cựu Tổng thống Bill Clinton""  Lý do chọn tựa đề này cho câu chuyện vì tôi nghĩ biết đâu khi các bạn trẻ hay con cháu tôi sau này vào internet để search về lịch sử của các Tổng thống Mỹ, chúng sẽ thấy cuốn hồi ký "My Life" của cựu Tổng thống Bill Clinton.  Rồi câu chuyện "My Life" của tôi cũng sẽ hiện lên đâu đó bên cạnh đấy, làm chúng tò mò muốn tìm đọc xem ai là người "cả gan" dám có một "My Life" viết bằng tiếng Việt như vậy.  Đây đúng là “dựa hơi”. Nhưng nghĩ lại tôi đã "dựa" vào nước Mỹ đúng hai mươi mốt năm qua, thì có "dựa" thêm một lần nữa chắc cũng không sao. 

Tôi sẽ bắt đầu câu chuyện "My Life" từ những ngày tôi còn thơ ấu ở Việt Nam.

 

*Những năm ở Việt Nam

 

Tôi sinh năm 1969 tại Hòa Hưng, Sài Gòn, một năm sau biến cố Mậu Thân.  Nếu đọc trong tờ khai sanh của các anh chị em tôi, người ta có thể hình dung cuộc đời người lính nay đây mai đó của ba tôi. Người anh hai của tôi ra đời ở Thủ Đức, quê ngoại của tôi.  Đó là kết quả của mối tình của ba tôi, người lính quân y đang phục vụ tại Quân Y viện ở Thủ Đức và má tôi, một cô nữ sinh tuổi mười bảy. Ba má tôi gặp nhau lần đầu khi bà Ngoại tôi dẫn má tôi theo vào chơi ở Quân y viện, cũng là nơi Ngoại tôi đang làm việc.  Và mối tình giữa chàng lính quân y và cô  gái trong thời chiến bắt đầu trong cảnh quân y việân  đầy những thương binh vừa từ chiến trường về.  Sau khi anh hai tôi ra đời khoảng được hai năm, má tôi, một cô gái chưa từng rời bước khỏi mái ấm gia đình giữa nơi thị thành phải khăn gói theo ba tôi trôi dạt đến Qui Nhơn, một thành phố biển ở miền Trung nước Việt.  Ba người chị tiếp theo của tôi đã chào đời nơi đó. 

Cuộc chiến ngày càng khốc liệt, ba tôi được chuyển công tác về lại Sài Gòn và đó cũng là nơi tôi ra đời. Hai năm sau khi tôi ra đời, ba tôi lại chuyển về làm ở Bệnh viện Bốn Dã Chiến của tỉnh Bình Dương.  Đó là nơi đứa em gái út của tôi chào đời. Trong trí óc non nớt của tôi ở tuổi lên năm hay sáu, tôi còn nhớ lờ mờ căn nhà nhỏ lụp xụp của gia đình tôi, nằm ngay phía sau ngôi nhà lớn của người cô cho ở tạm.  Cô tôi có một cửa hiệu thuốc tây rất nổi tiếng ở ngay trước khu chợ Búng, cách khu vườn trái cây Lái Thiêu không xa.  Căn nhà nhỏ nằm ngay cạnh bờ sông đã để lại trong lòng tôi ít nhiều kỷ niệm của tuổi ấu thơ. Đó là những ngày khi nước lớn, nước sông tràn vào mảnh sân nhỏ phía trước nhà.  Khi nước rút đi, tôi và đứa em út thường hay nghịch đùa lội nước, bắt những con cá lòng tong còn vướng lại trong những vũng nước trước sân. Má tôi có một sạp vải nhỏ ở trong chợ Búng, nhưng có lẽ vì không có gan buôn bán nên lần lần bị hụt vốn và phải sang lại tiệm.

 

Chiến tranh ngày càng ác liệt dẫn đến ngày 30 tháng 4 đen tối.  Ký ức cuối cùng của tôi về cuộc chiến là cả gia đình bồng bế chạy tản cư từ Lái Thiêu về quê nội tôi ở Chánh Mỹ, Bình Dương, một ngày trước ngày mất nước. Ba tôi lo là những toán du kích Việt cộng có thể từ bên kia sông sẽ vượt sông để chiếm lĩnh con đường lộ, nên chúng tôi vội vã rời khỏi nhà trong khi bom đạn bắt đầu nổ rền vang trên đầu. Con đường quốc lộ đầy nghẹt những xe tăng, thiết giáp đang hối hả chạy về hướng Sài Gòn trong khi gia đình tôi chạy ngược lại với những đoàn xe.  Để cho an toàn, ba tôi quyết định đi theo những con đường tắt, lội qua những con kênh rạch, cánh đồng thay vì dùng quốc lộ chính.  Trong cảnh chạy loạn, nhưng tôi vẫn còn ghi nhớ tấm lòng của những người dân hiền lành, chất phác trong những khu xóm giữa những cánh đồng. Họ giúp ba và anh hai tôi đẩy chiếc xe vespa và chiếc mobilét cũ qua những con lạch nhỏ thay vì những người dân này có thể ẩn nấp an toàn để tránh đạn bom trong ngôi nhà của họ. 

Đến lúc xế trưa vì hết đường tắt để đi, gia đình tôi buộc phải chạy men theo quốc lộ.  Tôi thật sự sợ hãi khi lần đầu chứng kiến cảnh những người chết, bị thương vì trúng đạn nằm la liệt khắp nơi ven đường.  Khi đến Phú Văn, đạn pháo ngày càng nổ vang rền khắp nơi nên ba tôi quyết định dừng lại tá túc tại nhà của một người cô ở ngay ngã tư Phú Văn. Căn nhà phố nền xi măng nên không có xây hầm trú ẩn.  Tôi còn nhớ cảnh mấy anh chị em phải chui rúc xuống dưới gầm một chiếc ván gỗ để tránh đạn pháo rơi.  

Đến chiều, khi tiếng súng đạn đã tạm ngưng, chúng tôi nuốt vội mấy miếng cơm chan với canh rồi tiếp tục lên đường về nhà ông Nội của tôi, cách Phú Văn chừng khoảng nửa tiếng. Trời đã về chiều với những cơn gió thổi nhè nhẹ từ những cánh đồng thơm mùi lúa đang ngậm sữa, Bình Dương đã mở cửa đón chào tôi thật thanh bình, đầm ấm như cái xoa đầu của ông Nội tôi.  Bắt đầu từ ngày đó, tuổi thiếu niên rồi tuổi thanh niên của tôi đã gắn chặt với mảnh đất hiền hoà của quê nội.

Hết năm học cấp hai, khi thi chuyển cấp từ lớp chín lên lớp mười, tuy là đứa học trò nhỏ tuổi nhất lớp, nhưng tôi có  số điểm cao nhất trường. Tôi còn nhớ trước đó cô giáo dạy môn Toán đã thách thức bọn học trò: "Từ trước đến nay khi cô dạy, chưa có em nào thi toán chuyển cấp được mười điểm.  Em nào thi được mười điểm lần này, cô sẽ cõng đi một vòng sân trường".  Năm đó tôi thi Toán được điểm tối đa, nhưng cô giáo đã lờ đi không cõng tôi một vòng quanh sân trường như cô đã hứa, mà nếu cô có làm, chắc tôi cũng không dám trèo lên tấm thân gầy gò của cô.  Ngoài Toán ra tôi rất mê học Văn.  Từ lớp năm, sau khi học cách đặt những vần thơ lục bát là tôi đã bắt đầu tập sáng tác những bài thơ.  Tôi không chơi đùa với bọn trẻ trong xóm, nên sau giờ học, tôi tự bày ra nhiều trò chơi trẻ con để chơi một mình.  Tìm đâu được chiếc xe hơi đồ chơi nho nhỏ, tôi dùng trí tưởng tượng của mình để đặt một viên đá nhỏ vào chiếc xe giả bộ làm "người hùng" lái chiếc xe vòng vòng đi "diệt giặc".  "Giặc" ở đây là cục đá xấu xí khác trong vai những tên cán bộ, công an xã hống hách, hay bắt nạt và bòn rút những người dân lành trong xóm.  Tôi giấu ba má tôi khi bắt đầu viết cuốn truyện dài đầu tiên trong quyển tập học trò về "người hùng" của tôi qua những trò chơi tưởng tượng này, trong những năm tháng khi tôi còn đang học cấp II. 

Cuối năm lớp chín, tôi và bốn học sinh từ những ngôi trường khác, đại diện tỉnh Bình Dương (lúc đó còn là tỉnh Sông Bé) để thi Văn với những tỉnh và thành phố khác.  Với thành tích này cộng với số điểm thi cao nhất, 36/40 ở kỳ thi tốt nghiệp phổ thông năm đó, tôi được tuyển thẳng vào trường Trung học Thị xã. Những năm tháng học cấp hai cũng là những năm kinh tế của gia đình tôi cũng như phần lớn các gia đình khác ngày càng xuống dốc vì  chính sách kinh tế ngu muội của cái chế độ đang cố công xây dựng một chủ nghĩa xã hội ảo tưởng theo khuôn mẫu của Liên sô và Trung cộng.  Từ những vụ "đổi tiền", rồi "đánh tư sản", đến chính sách "hợp tác xã", một hình thức cướp ruộng đất trắng trợn trên tay của những người nông dân hiền lành, chất phác. Sau đó, mỗi gia đình được chia dăm ba sào đất để canh tác rồi nạp thuế thóc tính theo đầu người. 

Tuy chỉ mới mười ba, mười bốn tuổi, nhưng ngoài giờ học ở trường, tôi cũng đã phải theo ba má ra ngoài đồng ruộng để làm việc. Cả nhà vất vả nhưng những bữa ăn vẫn phải độn khoai thật ngán ngẩm, nhưng mấy anh chị em vẫn gắng nuốt để làm cho ba má được vui lòng. Tôi còn nhớ như in những buổi sáng trước khi đi học, má tôi chỉ có đủ tiền cho phần ăn sáng cho ba tôi, vì ông cần có sức để làm cả buổi ngoài đồng, đứa em gái út và tôi, vì tuổi đang lớn.  Một gói xôi nho nhỏ từ gánh xôi của bà cụ bán bên kia đường sao thơm ngon lạ thường. Những buổi sáng băng qua đường đến mua xôi, tôi còn nhớ cánh tay gầy guộc của bà cụ thêm vào, bớt ra từng miếng xôi nhỏ gói trong miếng lá chuối được lau một cách sơ sài bằng chiếc khăn ướt nhỏ, cũ mèm. Ở tuổi đang lớn, một gói xôi nhỏ xíu không sao làm đầy cái bao tử của tôi để chống chọi cho cả một buổi sáng lội bộ đi học.  Thường thì tôi ăn hết gói xôi của mình trước khi trở về nhà.  Hôm đó, tôi không cưỡng lại được cơn thèm ăn nên đã lén mở gói xôi của ba tôi ra ăn thêm một miếng. Khi cầm gói xôi trên tay, ba tôi chợt nhìn tôi rồi hỏi, "Con còn đói bụng lắm hả""  Tôi e thẹn cúi đầu vì lỗi lầm vừa mới mắc phải, dù ba không nói gì về chuyện tôi ăn vụng. 

Vừa định quay bước đi, tôi bỗng nghe giọng ba tôi nói, "Con ăn hết gói xôi này đi, rồi đi học.  Nhưng nhớ đừng cho má con biết nhe...".  Tôi đưa mắt ngạc nhiên nhìn ba tôi như muốn hỏi, "Nhưng ba sẽ ăn gì"  Ba còn phải làm việc ở ngoài đồng cả buổi sáng hôm nay mà".  Ba tôi mặc vội chiếc áo, vác chiếc cuốc lên vai rồi bước đi, để lại tôi đứng tần ngần với gói xôi trên tay mà nước mắt lưng tròng.  Tôi chỉ muốn chạy theo ôm lấy tấm lưng của ba, để được nói lên trong những tiếng nấc nghẹn ngào, "Ba ơi, con thương ba quá".  Một làn gió ban mai thổi qua làm bay phất phới những mảnh vá đã bị sút chỉ trên chiếc áo đã bạt màu và sờn rách của ông.

Hết năm học cấp II, tôi được chọn theo học lớp chuyên Toán đầu tiên của trường Trung học sau kỳ thi trắc nghiệm. Lúc này gia đình tôi đã có giấy bảo lãnh của người chú từ Mỹ gởi về. Tờ giấy bảo lãnh như một niềm hy vọng duy nhất mà gia đình tôi có thể đến Mỹ. Nuôi hy vọng có một ngày sẽ được đến Mỹ, tôi dành nhiều thời gian học môn Anh văn.  Không có tiền mua quyển sách văn phạm Anh văn, tôi đến nhà một người thầy, cặm cụi ngồi chép từng trang một.

Cuối năm cấp III, tôi dự thi môn Anh ngữ cấp quốc gia.  Đối với một học sinh từ một tỉnh nhỏ, vượt qua các kỳ thi vòng loại và được tranh tài ngang ngửa với sinh viên ở các thành phố lớn như Sài Gòn, là một điều tôi cảm thấy rất tự hào trong cuộc đời học sinh của mình. Cuối năm trung học 1986, tôi đậu thủ khoa với số điểm 36/40, nhưng Ban giám hiệu nhà trường  lúc đó không có lấy một lời khen thưởng nào, có lẽ họ không muốn tuyên dương thành tích của một đứa "con ngụy". 

Thời đó, khi thi vào đại học, vẫn còn chuyện xếp loại "đối tượng" khi tuyển sinh.  Với lý lịch gốc “ngụy” của mình, tôi "được" xếp loại đối tượng 11, đừng mong có chỗ học tại  các trường Y Nha Dược, Bách khoa hay trường Luật. Dù sao, với thành tích đậu thủ khoa và đoạt giải thi cấp quốc gia môn Anh ngữ, theo đúng tiêu chuẩn tuyển sinh lúc đó, tôi sẽ đuợc tuyển thẳng vào Đại học Sư phạm mà không cần đến số điểm thi vào đại học. Gần đến ngày nhập học, chỉ có một thủ tục cuối cùng mà tôi phải làm là "cắt hộ khẩu" để chuyển nơi ở của tôi lên Sài Gòn nhập học vào trường. 

Tôi vẫn nhớ mãi buổi chiều hè hôm đó, khi tôi đạp chiếc xe đạp cũ ra Ủy ban xã để ký giấy chứng nhận trên tờ đơn nhập học. Tên chủ tịch xã đón tôi với thái độ rất hách dịch của một ông "quan dân".  Sau khi hất hàm ra hiệu cho tôi ngồi ghế chờ, hắn khệnh khạng cầm tờ đơn lên đọc, đôi mắt lươn vẫn thỉnh thoảng rình rập như muốn dò xét tôi.  Một hồi sau hắn cúi xuống húy hoái viết, rồi đóng vào một cái mộc đỏ chói. Tôi cầm tờ đơn ra xe và bỗng thấy trời đất như tối sầm trước mắt khi đọc hàng chữ viết nguệch ngoạc như của một đứa con nít mới học viết: "Đương sự đang có giấy bảo lãnh chờ đi Mỹ. Đề nghị trường không cho học." Cái lo nhất của tôi lúc đó là nếu không được nhận vào trường, tôi chỉ còn có một con đường là bị bắt đi "nghĩa vụ quân sự". Không biết đến chừng nào tôi mới có cơ hội đến nước Mỹ, mà khi bị bắt đi nghĩa vụ thì họ đâu có cần xếp đối tượng hay khước từ những người có giấy bảo lãnh như tôi. 

May thay lúc đó ở tỉnh Bình Dương có trường Cao Đẳng Sư  Phạm đang mở ra để đào tạo giáo viên dạy cấp II cho tỉnh.  Tôi vội vàng đến lấy đơn ghi danh nhưng cũng không hy vọng lắm khi trường cũng đòi hỏi phải mang đơn nhập học ra xã chứng nhận trước khi vào trường.  Lần này gia đình tôi có kinh nghiệm hơn nên má tôi đã phải lo lót cho tên công an khu vực đem quà đến cho tên chủ tịch xã.  Quả nhiên sau đó hắn cười vui vẻ và không đả động gì đến cái giấy bảo lãnh mà tôi có. Thế là tôi được vào trường Cao Đẳng Sư phạm, và nhờ vậy mà trốn được cái "nghĩa vụ quân sự" đã làm mất đi bao mạng sống và tương lai của những người thanh niên trẻ lúc bấy giờ...

Ngôi trường Cao Đẳng Sư phạm cách nhà tôi cũng khá xa, gần một tiếng đồng hồ trên chiếc xe đạp cộc cạch.  Nơi đây tôi đã làm bạn thân với một số bạn bè mà tôi biết rằng cũng cùng hội cùng thuyền, những người bạn có số phận tương đối giống như tôi, trong lớp Sư phạm chuyên khoa Anh ngữ này. Có lẽ do có nhiều điểm tương đồng, chúng tôi đã trở nên những người bạn rất thân. Những thầy cô được ký hợp đồng đến đây dạy phần lớn là những Giáo sư đang dạy ở Đại học Sư phạm Sài Gòn. Có những người phải đón xe đò để hàng tuần lên dạy học cho chúng tôi. Những buổi trực đêm hát ngêu ngao, những ngày học vất vả khổ cực trong năm đầu đã làm cho chúng tôi thương mến nhau như trong một gia đình. Tôi được các bạn đặc biệt quí mến vì họ hiểu hoàn cảnh của tôi, và tôi luôn mang những kiến thức mình có được để chỉ dẫn giúp đỡ bạn bè. 

Đến năm học thứ hai, chúng tôi bị bỏ nhiều lớp vì trường không có đủ kinh phí để tiếp tục thuê giáo viên đến dạy.  Có những buổi chúng tôi đến lớp, để rồi chỉ ngồi nhìn nhau tán dóc vì không có ai đến dạy cả.  Lúc đó, bạn bè đề nghị tại sao tôi không soạn bài để đứng lên bục, giảng cho các bạn trong những giờ trống như vầy, vì trước đó có lần tôi đã được một Giáo sư cho lên tập dạy trước lớp. Thế là tôi bất đắc dĩ phải đảm nhiệm vai trò của một người thầy.  Mãi về sau này, tôi vẫn còn nhận được những lời biết ơn từ những người bạn học cũ.

Cuối cùng, sau hơn mười mấy năm mòn mỏi đợi chờ, gia đình tôi được giấy phép xuất cảnh đi Mỹ.  Anh và chị lớn của tôi vì đã lập gia đình nên phải ở lại. Một ngày hè của tháng 5 năm 1988, tôi bịn rịn từ giã những người thân, bạn bè cùng bao nhiêu kỷ niệm vui buồn đã gắn liền với mảnh đất Bình Dương để ra đi mà không biết có ngày nào sẽ trở về.

 

* Cuộc sống ở Mỹ

 

Sau bốn tháng tạm cư ở trại Battan,  chiếc máy bay đưa gia đình tôi đáp xuống phi trường L.A.X vào ngày cuối của tháng 9 năm 1988.  Chú tôi và người anh họ đến phi trường đón chúng tôi.  Tôi còn nhớ rõ tiết trời lành lạnh lúc đó như đang chớm Thu và chắc hẳn là cảm thấy lạnh hơn so với bây giờ, sau khi tôi đã sống 19 năm ở đất nước có khí hậu nhiệt đới. 

Khi xe rời khỏi phi trường, tôi đưa mắt nhìn những cảnh vật hai bên đường với cảm giác bỡ ngỡ của người mới đến. Những xa lộ chằng chịt bắc lên nhau, những hàng xe hơi dài chạy nối đuôi trật tự không có một tiếng còi xe và những tòa cao ốc sừng sững xây dọc theo hai bên đường.  Tôi đưa mắt như muốn thu nhận tất cả vào trong tâm trí cho thỏa lòng mong đợi từ mười mấy năm qua để được nhìn thấy giây phút này.  Cảm giác bỡ ngỡ xen lẫn với nỗi háo hức nhưng tuyệt nhiên không có pha chút nỗi lo sợ nào trong lòng tôi.  Một miền đất hứa đang mở rộng vòng tay đón chào tôi, người thanh niên ở lứa tuổi mười chín đầy mộng mơ và nhiệt huyết.  Tôi đã tự nhủ cho dù bất cứ điều gì sắp sửa xảy ra cho tôi đi nữa, nó cũng sẽ không thấm vào đâu so với những gì bản thân tôi đã trải qua trong mười ba năm tôi sống dưới chế độ cộng sản. 

Sau vài ngày ở tạm nhà người cô đã đến Mỹ vài năm trước, gia đình tôi thuê một căn nhà  nhỏ gần khu Little Sài Gòn, góc đường Bolsa và Euclid.  Để tiết kiệm tiền, cả gia đình sáu người nhưng thuê căn nhà chỉ có hai phòng ngủ.  Bố mẹ tôi ở một phòng và các chị em gái ở phòng kia.  Tôi thì được chiếc ghế sofa và cuộc đời tôi kể từ đó gắn liền với chiếc sofa trong phòng khách, chưa bao giờ có được một phòng riêng, cho đến khi tôi học ra trường Nha khoa.

Lúc tôi đến My, vì đã cuối tháng 9 nên các trường đại học cộng đồng đều đã nhập học.  Tôi nghe theo lời khuyên của các anh chị họ đi trước là ghi danh theo học lớp Anh ngữ  E.S.L ở trường Lincoln.  Với vốn tiếng Anh sẵn có, tôi luôn tự hào với cái tên "quyển sách văn phạm biết đi" như các bạn ở Việt Nam đã đặt cho tôi vì tôi có thể đặt câu, dịch từ tiếng Việt sang tiếng  Anh hay ngược lại một cách dễ dàng.  Vậy mà những ngày tháng đầu, tôi thật sự ngượng ngùng và bối rối  khi nói một tràng tiếng Anh rất đúng văn phạm mà cô giáo người Mỹ vẫn không hiểu tôi muốn nói gì.  Tôi cũng chỉ nghe và hiểu phân nửa những gì cô giáo nói.  Có như thế mới biết phần nghe và phát âm của mình dù có học nhiều ở Việt Nam, cũng chỉ có thể nghe và hiểu cách giáo viên ở Việt Namphát âm tiếng Anh thôi.  Tiếng Anh do người bản xứ nói khác rất nhiều và khi tôi mới bắt đầu nói với họ, tôi lại có thói quen nói quá nhanh và không phát âm rõ những âm cuối. Ngoài giờ học ở trường, tôi còn tranh thủ đi bỏ báo vào buổi sáng.

Cuối tháng 11 đầu tháng 12, trời bắt đầu trở lạnh.  Tôi phải dậy thật sớm từ bốn, năm giờ sáng, co ro trong hai ba lớp áo ấm để đến chỗ cột báo và ôm báo ra xe.  Tôi chỉ được hướng dẫn cách bỏ báo ngày đầu tiên, đến ngày thứ hai là phải tự lái xe đi bỏ báo một mình.  Trời buổi sáng đầy sương mù bám vào kiếng xe khiến nhiều khi không thể thấy đường để lái.  Lúc đó tôi rất gầy, chỉ độ 110 - 115 lbs thôi mà phải khệ nệ ôm từng chồng báo ra xe và lội bộ vào những ngõ ngách của những khu apartment để bỏ báo. Những ngày cuối tuần, báo càng nặng thêm vì hàng đống coupons quảng cáo. Tội nghiệp chiếc xe hơi nhỏ cà rịch cà tang mà tôi cứ phải thắng tới thắng lui, kéo cần số tới lui. 

  lần vì quá vội sợ trễ giờ vì phải giao báo trước khi người nhận báo thức dậy, thay vì đẩy cần số xe vô "P", tôi đẩy qua "N". Vừa ôm chồng báo bước ra khỏi xe, chiếc xe tiếp tục lăn bánh tông vào phía sau của một chiếc xe đang đậu trong parking lot.  Tôi hốt hoảng định bỏ chạy, nhưng mặc cảm tội lỗi làm tôi dừng lại.  Tôi viết vội vào mảnh giấy gắn lại trên chiếc quạt kiếng, rằng tôi là một học sinh nghèo đang đi bỏ báo để dành tiền đi học, và xin chủ xe liên lạc với tôi ở số điện thoại nhà. Cả ngày hôm đó tôi cứ thấp thỏm, hồi hộp, lo âu không biết người chủ xe sẽ tính sổ mình như thế nào. Không khéo tôi có đi bỏ báo thêm vài tháng nữa cũng không đủ tiền đền chiếc xe bị móp và hư sơn.

 

Chiều hôm đó tim tôi như thắt lại khi tiếng chuông điện thoại vang lên.  "Alô", tôi bốc điện thoại, cất tiếng chào bằng một giọng run run.  Từ đầu dây bên kia là giọng của một người đàn bà Mỹ mà tôi đoán cũng đã đứng tuổi. Bà nói bằng một giọng chậm rãi, nhẹ nhàng cho tôi hiểu vì chắc bà thấy cái tên "Hưng" tôi viết để lại trên mảnh giấy.  Bà cho tôi biết bà là giáo viên đã về hưu, nói tôi đừng lo, rồi khuyên tôi lái xe cẩn thận và ráng lo học hành.  Tôi cảm động muốn rơi nước mắt. Trong khi tôi đang lo lắng chuẩn bị tinh thần cho một tràng mắng chưởi và đòi bồi thường, thì có người gọi đến cho tôi và còn khuyên bảo cố gắng học hành.  Đúng là chỉ có ở xứ Mỹ!

Nhiều người đến trước, khi nghe tôi ngỏ ý muốn ghi danh đi học khóa học mùa Xuân bắt đầu vào tháng Giêng, họ khuyên tôi nên chờ đủ một năm rồi hãy đi học vì lúc đó tôi đã trở thành thường trú nhân thì không phải đóng tiền học phí cao.  Thêm vào đó, lúc đó tôi sẽ được nhận thêm Cal-Grant B của chính phủ cấp khi đi học.  Tôi nhẫm tính nếu chờ đến cuối tháng chín năm sau, tôi sẽ bị mất đến ba khóa học, mà mỗi khóa nếu lấy tối thiểu mười hai units, thì tôi sẽ mất ít nhất ba mươi sáu units.

Tôi quyết định không nghe theo lời khuyên này, vì nếu phải đóng tiền học, tôi có thể mượn Financial Aid và nếu không được nhận Cal-Grant B thì cùng lắm tôi bị mất vài trăm đô một tháng, nhưng tôi sẽ bớt chi tiêu và có thể kiếm việc gì đó để làm them vì tôi nghĩ những mùa học đầu tiên, chương trình sẽ không có gì nặng nề lắm.  Thà như vậy còn hơn phải để phí hơn một năm nữa mới vào học. Đó là một quyết định đầu tiên nhưng quan trọng trong quãng đời đi học của tôi và sau này khi có dịp nhìn lại, tôi hài lòng là mình đã quyết định đúng đắn. Nhờ vào trường sớm, tôi ra trường sớm hơn một năm và trong một năm có thể làm ra số tiền gấp bao nhiêu lần số tiền có thể lãnh được từ trợ cấp Cal-Grant B. 

Điều quan trọng hơn, tôi biết có một số người, năm đầu tiên khi đến Mỹ, cũng vì trì hoãn việc đến trường, trong thời gian một năm chờ đợi, họ tìm một việc gì đó để làm full-time.  Khi có một chút tiền trong tay, họ tìm mua một chiếc xe hơi mới nhờ việc mua xe rất dễ dàng ở xứ này với số nợ thiếu lại do nhà băng cho mượn.  Rồi dần dần do áp lực phải trả nợ xe, tiền bảo hiểm, v.v...,  việc trở lại trường là một điều không còn thực hiện được.  Lúc đó, cách duy nhất là phải đi làm full-time, đi học part-time vào ban đêm.  Rồi việc học cứ thế mà kéo dài ra. Với tôi, tôi đã quyết định rằng khi nước Mỹ cho tôi cơ hội, tôi phải bằng mọi cách nắm lấy, như việc nhập học sớm để ra trường, trước khi tôi có thể bị vướng bận và chi phối bởi những món nợ vật chất, dẫu cho tôi có là một học sinh nghèo nhất nước Mỹ đi chăng nữa.

Mùa học đầu tiên, để có tiền mua sách vở và đổ xăng, tôi vừa học vừa làm việc part time. Công việc đầu tiên là chạy bàn ở một tiệm ăn Việt Nam vì tôi nghĩ chắc những người đồng hương với nhau dù sao cũng dễ thông cảm và giúp đỡ nhau nhiều hơn.  Công việc khá vất vả vì chủ nhà hàng sai tôi làm việc không từ một công việc gì, từ hút bụi, lau chùi sàn nhà, dọn bàn ghế, v.v... ngoài công việc lấy thực đơn cho khách.  Chúng tôi thường về nhà rất khuya khi người khách cuối cùng đã rời khỏi nhà hàng.  Tuy làm việc cực khổ như vậy để phục vụ khách đến ăn, nhưng khi khách để lại tiền tip cho anh em phục vụ, người chủ nhà hàng giữ lại tất cả không chia cho chúng tôi một đồng nào.  Có những đêm trở về nhà và gieo mình lên chiếc ghế sofa, tôi cảm thấy khắp người đau nhức ê ẩm, nhưng phải cố giương mắt vào trang sách để chuẩn bị bài vở cho ngày hôm sau. 

Mấy tuần lễ đầu sau khi nhập học, tôi vẫn còn thiếu một quyển sách Calculus nhưng chưa có tiền mua nên hằng ngày cứ phải mượn sách của người bạn để  photocopy. Đến một hôm tôi hỏi người chủ nhà hàng tại sao tôi làm đã hơn hai tuần lễ mà ông ta vẫn chưa trả tiền lương cho tôi.  Tôi cho ông biết tôi cần lãnh lương để có tiền mua sách học.  Ông ta chỉ khinh khỉnh mở máy thâu tiền và vứt tờ giấy 50 đôla trên mặt bàn nơi quầy tính tiền.  Tôi cố nuốt nỗi uất ức vào lòng mà cầm lấy số tiền.  Kể từ đó, tôi không bao giờ trở lại nhà hàng đó nữa.  Còn quyển sách Calculus mà tôi dùng số tiền đó để mua, tôi còn giữ nó mãi cho tới bây giờ.  Có lẽ quyển sách đó sẽ trở nên cũ và lỗi thời, nhưng đó sẽ là món quà tôi trao cho con tôi như một kỷ niệm ngày cháu vào đại học.

Rời khỏi nhà hàng Việt Nam, tôi tìm việc làm parttime ở các nhà hàng Mỹ, hy vọng sẽ được đối xử khá hơn.  Nhà hàng fast-food đầu tiên tôi làm là Kentucky Fried Chicken.  Cái khổ đầu tiên là do tôi chưa quen hết tên các món ăn Mỹ nên thật lúng túng khi khách order, nhất là phải lấy order qua "Drive-thru", vì lúc đó khách hàng đâu có thể chỉ lên bảng cho tôi biết họ muốn ăn món gì.  Một tuần sau tôi mới quen dần tên các loại thịt gà, các loại thức ăn kèm theo, đến tên các loại nước uống và tráng miệng.  Cái khổ thứ hai là thối lộn tiền. Tôi chưa quen dùng máy cashier nên cứ bấm lộn và thối lộn tiền.  Có lần, ông manager kiểm tra lại thấy thiếu đến 20 đôla. Cũng may ông nói là ông biết tôi mới đến Mỹ, nên còn dễ lầm lẫn trong việc thối lại tiền, chứ không có ý gian. Tuy nhiên, số tiền thì phải nộp đủ cho công ty vì nếu ghi thiếu thì chắc không sớm thì muộn, tôi sẽ bị đuổi việc. Tôi xin ông cho tôi ra xe lấy 20 đôla để bù vô số tiền thiếu vì tôi không muốn bị mất việc. 

Tôi làm ở đó đến mấy tháng cho đến một đêm gần cuối mùa học đầu tiên.  Đó là một đêm mà có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên. Trong lúc lau dọn sàn nhà trước khi ra về, tôi vì nóng lòng muốn trở về nhà để chuẩn bị bài vở cho bài thi final nên vội vàng và trong một lúc sơ ý, tôi bị trượt chân mất đà ngã nhúng cả bàn tay phải của mình vào thùng dầu chiên gà.  Có lẽ vì quá đau đớn nên tôi không còn biết cảm giác đau nữa mà chỉ thấy thật khiếp sợ khi nhân viên cấp cứu đến và cắt đi vài miếng da đang bị lột ra trên bàn tay tôi, hệt như những miếng da gà chiên dòn mà hàng ngày tôi nhìn thấy.  Trong lúc đó, tôi chỉ lo không biết làm sao ngày mai tôi có thể cầm viết để làm bài thi với bàn tay quấn đầy băng.

Khi tôi về đến nhà, cơn đau mới bắt đầu hành hạ tôi.  Tôi lăn lộn trên chiếc ghế sofa trong cơn đau đang dày xé dù đã uống thuốc giảm đau. Tôi phải dùng một chiếc khăn nhỏ bỏ vào miệng cắn thật chặt để ba má tôi nằm ở phòng bên không đau lòng vì tiếng kêu rên của tôi.  Tôi không muốn ba má tôi phải mất ngủ sau một đêm dài mệt mõi vì lo lắng.  Còn bàn tay trái, tôi cố giữ cuốn sách cho thật chặt trong lòng để nó không rớt xuống, nhưng những hàng chữ thỉnh thoảng cứ như múa lượn và toả ra những làn hơi nóng như hơi nóng bốc lên từ thùng dầu chiên gà. Có lúc cơn đau làm tôi mê man, để thấy mình đang vui đùa và được nhúng bàn tay vào bắt những con cá lòng tong còn vướng lại trong những vũng nước trong sân nhà sau khi cơn nước rút.  Ôi, vũng nước ngày xưa sao mát dịu quá chừng.  Rồi cơn đau buốt lại mang tôi trở về với thực tại.  Có đôi lúc như ngây dại, tôi định tháo hết bông băng để nhúng bàn tay mình vào một thau nước lạnh, hy vọng sẽ xoa giảm cơn đau.  Cũng may tôi kịp tỉnh trí để tránh làm một chuyện điên rồ.  Tôi dùng vài trang giấy đang viết để làm chiếc quạt nhỏ mong làn hơi mát từ chiếc quạt giấy có thể làm giảm bớt cơn đau.  Cứ như thế, tôi vừa đọc, vừa quạt cho đến sáng. 

Thời đó, sinh viên làm bài thi bằng cách tô đậm bằng viết chì lên những ô chữ trên tờ giấy scantron.  Trước khi đến lớp, tôi thử dùng tay trái để tô bằng viết chì nhưng thấy quá chậm chạp, tôi sợ không đủ thời gian làm bài.  Không có cách nào khác hơn, dù bàn tay vẫn còn băng kín và buốt nhói mỗi khi di chuyễn, tôi lấy con dao nhỏ và rạch miếng vải băng để ló ra ba ngón tay đủ để cầm cây viết  làm bài.  Tôi cầu trời cho bàn tay tôi không bị tật nguyền vì tôi còn có quá nhiều ước mơ chưa thực hiện được và chắc chắn rất cần đến cả hai bàn tay của mình.  Nhờ ơn trên phù hộ, mấy tháng sau, bàn tay bắt đầu lành, tuy vết sẹo trên bàn tay vẫn còn cho đến hôm nay. Kể từ đó, tôi không còn hứng thú gì mỗi khi ăn gà chiên nữa. Sau đó, tôi còn làm một số công việc khác như đi giao pizza, làm inventory cho các cửa tiệm bán hàng lẻ, v.v...

Có lần khi đi xin việc mới, người mananger đùa với tôi là tôi có nhiều kinh nghiệm trong mọi ngành nghề vì gần như nghề nào tôi cũng làm qua.  Lý do chính phải đổi nhiều công việc vì tôi muốn tìm công việc nào thuận tiện với  giờ giấc và việc học của mình. Mùa học đầu tiên, ngoài ESL và Calculus là hai môn học dễ dàng với vốn kiến thức đã có, tôi lấy thêm lớp Sociology. Đây là sai lầm đầu tiên trong những ngày đầu đi học ở Mỹ vì tôi đã không lượng sức mình. Ôi chao, có những lúc thầy giảng bài mà tôi ngồi nghe như vịt nghe sấm vì nhiều từ ngữ lạ lẫm mà tôi chưa bao giờ nghe đến với vốn sống ít ỏi chỉ có vài tháng trên đất Mỹ. Trong khi các sinh viên khác trong lớp ngồi ghi chép lia lịa những điều thầy giáo giảng, tôi ngồi hết sức tập trung và cố gắng theo dõi những điều ông Giáo sư đang giảng mà cũng không ghi chép được gì nhiều.  Sau đó tôi mới nảy ra ý nghĩ phải mang theo máy ghi âm rồi mang về nhà từ từ nghe đi nghe lại để chép xuống sau khi đã làm quen với những từ ngữ mới đọc từ trong sách.  Có thể nói tôi phải học cực hơn gấp ba bốn lần cho lớp này.  Đó là con B đầu tiên trong đời mà tôi hứa với lòng sẽ cố không tái phạm lại lỗi lầm này.  Rút kinh nghiệm từ mùa học đầu, những mùa học kế, tôi lấy những môn như Toán, Vật lý, Hóa Học, và Sinh vật học  trước, vì những môn này rất dễ dàng để lấy điểm A cho dù có lấy hơn mười hai units trong một mùa học, nhất là đối với những người đã học qua bậc Trung học ở Việt Nam rồi.

Bắt đầu mùa học thứ hai, để tiết kiệm thời gian lái xe đi lại, tôi xin làm việc work-study ở trong trường. Tuy được trả lương ít hơn, nhưng công việc tương đối nhàn rỗi.  Với kiến thức của một học sinh chuyên toán ngày nào, công việc phụ giáo cho phòng Math lab của trường quả thật  nhàn rỗi và dễ dàng.  Đó là lúc tôi có nhiều thời gian rãnh rỗi để làm quen với cô bạn gái trong thư viện của trường, như trong ca khúc "Chuyện Tình Tuổi Học Trò" mà tôi sáng tác sau này, vì trong những năm tháng đi học, tôi phải tạm xếp lại nỗi đam mê viết văn và âm nhạc của mình.  Cô bạn gái trong thư viện đó không ai khác hơn chính là người bạn đời của tôi sau này. 

Quen nhau trong những năm tháng vất vả nhất của đời sinh viên nên chúng tôi rất yêu thương và quý mến nhau. Ngọc Bích, tên người bạn đời, đã cùng tôi chia sẻ biết bao đắng cay ngọt bùi trong vai trò của người bạn gái mà cũng là người bạn học thân yêu.  Có những buổi trưa chỉ còn vài đồng xu dính túi, chúng tôi rủ nhau vào quán food-to-go, vét hết tiền chỉ đủ mua một phần cơm với thịt.  Sau khi xin hai cái muỗng và một vài bịch xì dầu, chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện học hành, chuyện tương lai.  Đó là những bữa ăn ngon nhất trong đời mà sau này dù có được ăn những bữa ăn ngon sang trọng đến cỡ nào đi nữa, tôi vẫn nhớ mãi phần cơm với vài miếng thịt chan xì dầu này. Hai ngày cuối tuần, tôi tranh thủ lái xe đến khu chợ trời ở  Costa Mesađể dọn hàng và phụ đứng bán hàng, kiếm thêm tiền trang trải cho tiền học và tiêu dùng vì ngoài số tiền mượn ít ỏi từ Financial Aid, tôi không được nhận một trợ cấp nào.  Mỗi thứ Bảy và Chủ nhật, tôi phải thức dậy từ bốn giờ sáng để lái xe đến khu chợ trời.  Không phải tuần nào đến cũng có người thuê làm vì có rất nhiều người đến xin việc ở đây. Có những hôm phải lái xe về không mà còn bị mất hai đô la vào cửa. Nhưng tôi tự an ủi là bù lại, tôi sẽ có thêm thời gian ghé vào một thư viện nào đó để  học bài. 

Thời gian là điều mà tôi ước mong mình có được nhiều hơn trong quãng đời đi học, cho nên khi thấy một số các em ngày nay thật may mắn khi không phải vừa đi học vừa đi làm như thế hệ của tôi, mà lại hoang phí thời gian và sao lãng việc học hành thì thật là đáng trách. Thêm một câu chuyện tôi muốn chia sẻ với các bạn trẻ, đặc biệt là những em học sinh mới vừa tốt nghiệp Trung học.  Trừ những học sinh xuất sắc được cấp  học bổng vào những trường đại học danh tiếng, một số em khác, ngay sau khi tốt nghiệp Trung học thường có xu hướng muốn vào Đại học - University ngay, thay vì học tiếp tại các trường Đại học cộng đồng - Community College. Sở dĩ vậy, có thểõ do một vài lý do sau đây.

Thứ nhất, khi các em thấy bạn bè của mình vào các trườngUniversity, nên cũng muốn vào cùng một lúc cho có bạn.  Một lý do khác là các em với lứa tuổi mới lớn, muốn sống một cuộc sống tự lập, mà các trườngCommunity Collegephần lớn lại ở gần nhà, nên không có lý do cho các em dọn ra khỏi nhà.  Theo tôi, chuyển lên họcUniversityliền là một quyết định không khôn ngoan lắm, nhất là với các em đang có ý định theo học các ngành Y, Nha, Dược.  Có nhiều lý do để theo học Community College trước. Trước hết, như kinh nghiệm của chính bản thân tôi, những unit tôi học ở Community College vẫn được tính vào điểm tổng kết G.P.A và một số lớp bắt buộc phải lấy trước khi vào trường Nha khoa, tôi có thể lấy ở đây.  Thêm vào đó, học phí của các trườngCommunity Collegethấp hơn nhiều so với các trường University, nên rất đỡ tốn kém cho các bậc phụ huynh của những em không nhận được học bổng.  Kế đến, là điều kiện và môi trường học ở Community College tương đối dễ dàng hơn để lấy điểm A, so với những công sức mà các em khác lấy cùng một lớp ở University phải bỏ ra, vì số sinh viên trong một lớp ở Univesity đông hơn rất nhiều, nên phải tranh đua với nhau rất vất vả mới lấy được điểm cao. Điều quan trọng cuối cùng là ở lứa tuổi vừa ra khỏi Trung học, các em dễ dàng bị bạn bè xấu dụ dỗ làm sa ngã và sao lãng việc học hành nếu như các em dọn ra ở riêng cho gần University, so với các em học thêm một đến hai năm ở những trường đại học cộng đồng, được gần gũi và có sự quan tâm hỗ trợ của các bậc phụ huynh.

Một quyết định khác tôi nghĩ cũng rất có lợi và tôi cũng xin chia sẻ với các bạn trẻ.  Sau khi học hết các môn có thể lấy ở Community College, đến đầu năm thứ ba (Junior), tôi chuyển trường lên học ở UCLA.  Trong năm thứ ba này, tôi đã lấy bài thi DAT (Dental Admission Test) thay vì chờ đến năm thứ tư (Senior) như nhiều sinh viên khác. Kết quả điểm thi 24/30 làm tôi rất phấn khởi (xin được nói thêm là nếu số điểm DAT trên 19 là có khả năng được nhận vào trường Nha khoa rồi), cộng với số điểm G.P.A khá cao của tôi, nên thay vì chờ thêm một năm nữa để lấy B.S. như các bạn học cùng khóa, tôi nộp đơn vào Nha khoa năm thứ ba và được một số trường Nha khoa gởi giấy nhận học.  Tôi chọn trường Nha khoa LomaLindaUniversityvì trường cũng gần nhà và tôi đã được nghe nhiều điều tốt về ngôi trường danh tiếng này. 

Nhờ nộp đơn sớm ở năm thứ ba, tôi ra trường trước hơn các bạn cùng khóa học (undergrad) một năm.  Các trường Nha khoa phần lớn không đòi hỏi sinh viên phải có bằng B.S, chỉ cần điểm DAT và GPA cao và học đủ các môn đòi hỏi là có thể được nhận vào trường.  Đây là một điều mà các bạn sinh viên cần để ý khi đọc kỹ các thể lệ của từng trường, vì nhiều khi ngay cả các counselor nếu không chuyên ngành của bạn định học cũng không nắm vững hết những đòi hỏi của từng trường. Chính vì có những quyết định đúng lúc, nên chỉ trong vòng chưa đầy ba năm từ khi bước chân vào trường đại học cộng đồng ở Mỹ, tôi đã trở thành sinh viên Nha khoa trong trường đại học nổi tiếng này. 

Những năm học ở trường Đại học Nha khoa Loma Linda, tôi vẫn là đứa học trò nghèo nhất trường. Phần lớn các sinh viên là con của những gia đình tương đối khá giả hoặc ngay trong số những sinh viên Việt Nam, cũng là những người có cha mẹ đã định cư ở Mỹ từ nhiều năm trước. Các bạn bè của tôi trong trường Nha khoa cùng khóa không phải lo nhiều về chuyện ăn ở hay các phí tổn khác, mà chỉ tập trung vào việc học. 

Trong bốn năm theo học ở trường Nha khoa, có lẽ tôi là đứa sinh viên duy nhất vừa học tám tiếng một ngày trong lớp cộng với những giờ thực tập ở những phòng lab, vừa phải đi làm thêm ở phòng Sterilization để kiếm thêm tiền chi tiêu cho việc ăn học. Trung bình trong suốt bốn năm ở trường Nha khoa, tôi chỉ ngủ khoảng ba đến bốn tiếng đồng hồ một ngày, và nhiều khi mệt quá, tôi ngủ luôn trong phòng học dành cho sinh viên Y và Nha. Đến năm thứ ba, tôi được học bổng của trường. Kể từ đó, tôi mới đỡ vất vả hơn cho đến khi ra trường vào năm 1996.

Ngày lễ ra trường, trong lúc bước lên khán đài để nhận bằng trong tiếng nhạc chào mừng, tôi đã không cầm được nước mắt.  Lần đầu tiên trong suốt cuộc đời sinh viên khó nhọc ở đây, tôi đã khóc. Đây là những giọt nước mắt vui mừng vì tôi biết những cố gắng của tôi cuối cùng cũng đã được đền bù.

Trên đây là câu chuyện về cuộc đời của tôi, "My Life".  Hy vọng rằng người đọc, nhất là các bạn trẻ sẽ tìm thấy qua câu chuyện này một điều gì đó hữu ích cho cuộc sống của mình.

 

Anthony Hưng Cao

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,309,575
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.