Cưỡng Bách Hồi Hương Rồi Mới Đến Mỹ
Tác giả: Nguyễn Thị Thu Hương
Bài số 273-16208740- vb570909
Tác giả nguyên quán Rạch Giá, 40 tuổi, hiện là cư dân Seattle, làm việc cho hãng Boing. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là tự truyện của người vượt biển năm 1989, bị cưỡng bách hồi hương và sau đó được xét cho định cư tại Mỹ. Mong tác giả tiếp tục viết thêm.
***
Người ta xa quê hương, dầu sang hay hèn thì khi trở về quê cũ đều gọi là "được hồi hương", nhưng tôi và một số khá đông người tị nạn thì lại gọi là "bị hồi hương".
Chúng tôi vượt biên đến trại tị nạn sau ngày 14 tháng 3 năm 1989....khi trại đã đóng cửa, nghĩa là không còn được hưởng qui chế tị nạn nữa.
Chỉ có một số rất ít người may mắn lọt qua thanh lọc, còn đa số được khuyến khích trở về Việt Nam.
Sau bao nhiêu gian khổ, chết chóc, hãm hiếp, cướp bóc mới đến được đây mà bây giờ lại ký giấy tự nguyện hồi hương thì tôi nhất quyết không làm, thế là có màn nhiều người bị khiêng lên máy bay như con heo con chó.
Vì dân tị nạn phản đối quá, biểu tình, tuyệt thực, mổ bụng tự sát v v... nên Cao Ủy trấn an rằng nếu về nước thì chính quyền CS không bỏ tù, lại còn được giúp đỡ tiền nong, mỗi đầu người được Cao Ủy cho $200 usd, vì vậy cũng có một số người chịu cực không nổi nên ký giấy.
Chuyện vượt biên, sống lây lất ở trại tị nạn người ta đã nói quá nhiều, nhưng chưa thấy ai kể về những thành phần bị ép buộc về nước như tôi, nên hôm nay lấy hết can đảm để viết lại, cho dù hồi còn nhỏ tôi học dốt lắm, nhất là môn Việt Văn.
Nhớ hồi nhỏ thầy ra đầu đề tả ông của em, tôi hỏi thầy:
-Thưa thầy, ông nội em còn ở ngoài bắc, còn ông ngoại mất đã lâu, cả hai ông đều không có ảnh để lại, em làm sao tả được"
Thầy nói :
-Thì tả đại khái là tai to, trán rộng, hoặc mượn hình ảnh của một ông lão trong xóm mà tả.
Kẹt một nỗi mấy ông cụ ở gần nhà tôi nhìn xấu quá, chắc chắn không phải là hình ảnh tiêu biểu của ông tôi, nên bài viết của tôi ngắn ngủn, nhưng cũng được thầy đọc cho cả lớp nghe, vì nó quá... hay:
- Nhà tôi có nuôi một Ông Ngoại. Mắt ông to, tai ông dài, trán ông rộng, mũi ông bóng mà bự. Ông rất dễ ăn và thương chúng tôi, đưa cái gì ông cũng ăn và hay đi quanh quẩn bên chúng tôi.
Tôi rất thương ông vì ông thường vâng lời chúng tôi.
Cả lớp cười inh lên khi thầy nói sao trò Hương tả ông ngoại mà giống tả con chó quá.
Thầy tôi thật thông minh, chắc thầy cũng biết tỏng ra là tôi đã cóp bi bài tả con chó trong cuốn tập đọc.
Văn chương như vậy mà hôm nay không biết bị ông ứng hay là bà hành gì, mà tôi lại nổi điên lên "viết văn" gửi cho mục Viết Về Nước Mỹ.
Hồi trước 1975, ba tôi là lính Hải Quân nên cả nhà sống ở Ssài Gòn, khu Ngã Ba Ông Tạ. Khoảng ngày 24-4-75 ba tôi có dự tính đưa cả gia đình xuống tàu HQ 600 vì có thời ông đã đi tuần duyên với chiếc này. Thế nhưng các cậu tôi lại khuyên nên ở tại nhà, nếu có gì thì cậu đáp trực thăng xuống ruộng rau muống gần nhà khu An Lạc để rước cả gia đình.
Chị cả của tôi mới theo bà ngoại về quê ở Rạch Giá nên má tôi rất lưỡng lự và khóc cả ngày. Các cậu tôi vô phi trường Tân Sơn Nhứt thì lại trở ra vì máy bay không còn, ai đó đã bay đi mất, thế là cả nhà bị vướng lại hết.
Tôi thấy các cậu gói súng lục vào trong nhiều lớp bao ny lon, cột dây cước vào chân Cầu Sạn rồi ném súng xuống giòng nước đen ngòm của Kinh Nhiêu Lộc.
Sau tháng tư, khi các cậu lên đường đi cải tạo rồi, dân chúng được lệnh khai thông, vét con kinh nước đen này, thì họ vớt lên cơ man nào là súng, có cả M60 và M79 kèm theo từng thùng đạn. Thì ra nhiều người âm thầm tính chuyện lớn như cậu tôi nhưng không thành công.
Vì gia đình trước kia đã từng sống dưới ruộng nên ba má tôi đưa các con trở về quê cũ, chứ ở lại SG cũng không biết làm gì, buôn bán cái chi để sống, không lẽ cứ bán dần đồ đạc trong nhà để mua gạo, thì còn được bao lâu sẽ sạch bóng từ trước ra sau. Ngoài ra chính quyền đốc thúc hàng ngày bắt dân chúng phải đi Kinh Tế Mới.
Về quê được ít lâu thì ruộng đất phải sung vào hợp tác xã. Đúng là cha chung không ai khóc, thiếu xăng bơm nước, thiếu phân bón và thuốc trừ sâu, nên từ một vựa lúa của miền nam, mà bây giờ dân vùng này phải ăn độn, ăn đói.
Những khẩu hiệu tuyên truyền không làm át được lời ông Thiệu mà những người thuộc chế độ cũ thường thì thầm với nhau: "Đừng nghe những gì CS nói, mà hãy nhìn kỹ những gì họ làm".