Father’s Day: Cha Tôi
Tác giả: Danny Trinh
Bài số 2640-16208717- v661209
Tác giả là cư dân California. Bài viết của ông có phần hồi ức thời thơ ấu rất đặc biệgt. Bài gửi đã lâu, nay được phổ biến nhân mùa Father’s Day. Mong tác giả sẽ dòn dịp viết tiếp.
***
Tôi vẫn thường gọi người cha ruột yêu quí bằng nhân xưng đại danh từ “Ba” ngay từ lúc bé trong gia đình!
Tôi được nghe kể lại rằng thủa nhỏ tôi là đứa bé rất èo uột, khó nuôi. Trong gia đình, anh và chị của tôi lúc còn bé đều bị bệnh nặng mà mất sớm. Khi tôi ra đời, ba má tôi rất lo lắng. Ông bà nghĩ rằng, ma quỷ đang quậy, nhập vào tôi và vô cùng vất vả để bao vệ mạng sống cho đứa con èo uột.
TRỊ BỆNH MA NHẬP
Một trong những cách để cứu mạng sống là ba má tôi đã đem hay "bỏ" tôi ra ngoài đường và nhờ người ở làng kế bên "lượm" đem về làm con nuôi. Tôi cũng được xỏ (Pierce) một lỗ tai bên phải để đeo một khoen bằng đồng như phụ nữ, dưới ống chân có mang một cái kiềng bằng đồng bóng loáng và ăn mặc quần áo như đứa con gái. Cóù lẽ đây là một cách đánh lạc hướng "Ma Quỷ về bắt hồn" hay các thân nhân đã chết trở về nhà để dẫn các người thân cùng về bên kia thế giới với họ, cũng không thể nào nhận ra diện mạo hay tên họ thật của tôi.
Vì bị bệnh nặng lâu ngày ảnh hưởng đến thần kinh nên tôi thường hay bị bệnh "Mộng du" về đêm, một hiện tượng đi rong chơi trong giấc ngủ, nhưng rất may là tôi không có đi trên mái nhà hay trên các ngọn cây trong đêm tối. Mộng du là một hiện tượng bệnh về thái thức, vì Vô thức đẩy mạnh Thức năng khiến hồn hành động theo vô thức; khi thức năng mạnh thì thể xác không còn là vật nặng nề nữa. Do đó, thêm một cách khác mà ba má tôi hy vọng cứu và phục hồi trí nhớ là khắc (xâm) trên trán (Tattoo) và trên cánh tay hình Thập tự rồi đem tôi "ký bán" như ký giấy bán một món đồ gì, nhưng thực tế là đem tôi gởi cho một chùa trong làng trông nom. Ông bà nghĩ rằng, ma quỷ đang quậy, nhập vào tôi và nó sẽ không dám đến chùa mà "lộng hành". Vì thế, mỗi ngày, tôi được ngồi dưới một Đại Hồng Chung (Chuông đồng to lớn) treo cao cách đầu của tôi một mét và luôn có một vị sư tụng kinh gõ chuông cầu nguyện được phục hồi trí nhớ; làm như thế để lỗ tai của tôi lúc nào cũng nghe tiếng chuông ngân vang hòa lẫn tiếng tụng kinh ê- a của vị sư trụ trì. Lời kinh và tiếng vang của Đại Hồng Chung ấy có một uy lực để "trục" hay xua đuổi con ma nào đó đang quấy phá trong tâm trí và trả lại "linh hồn thơ ngây" của tôi.
Đến nay, các dấu khắc (xâm) vẫn còn trên người và lỗ tai tôi vẫn còn có thể "đeo" hay mang các đồ trang sức phụ nữ; đây cũng là một mode của nhiều bạn trẻ thời đại hiện nay; ngoài ra, tôi có cảm tưởng tiếng chuông ấy vẫn còn vang vọng đâu đây trong tiềm thức như để nhắc nhở tôi luôn tỉnh và thức giác lý đạo. Kể từ ngày ấy, linh hồn tôi đã thực sự đã được "giao lại" cho nhà chùa như một hình thức được qui-y cửa Phật; tôi là đứa con của nhà chùa, một chủng tử của Phật, là Phật tử. Xin cảm ơn ba má đã cho con hạt giống từ bi ngay từ thời thơ ấu!
BỆNH THƯƠNG HÀN
Ông nội tôi là một thầy thuốc bắc (Đông Y sĩ) và có tiệm bán thuốc nên đã chẩn bệnh và "hốt" cho tôi uống hơn hai trăm (200) thang thuốc gia truyền để trị bệnh, ngoài ra còn thêm những thứ sâm nhung... bổ dưỡng quí giá đắt tiền trong ngành nghề mà ông biết. Ngày nào cái "siêu đất" dùng để nấu thuốc cũng ở trên bếp than nóng cho các "nước nhất, nhì và ba". Cứ ba chén nước sắc còn lại một chén thuốc; tôi phải cố gắng nhắm mắt, bịt mũi để uống hết chén thuốc đắng ròng rã gần một năm dài. Thuốc Bắc quả có công hiệu về lâu về dài cho lục phủ ngũ tạng vì thế sức khỏe của tôi đến ngày hôm nay dù đã từng hao phí rất nhiều khi còn trai trẻ và trong các trại tù lao động của Cộng Sản, nhưng so với người cùng tuổi thì tôi vẫn còn khỏe hơn nhiều người.
Ngoài ra, ba má tôi cũng đưa tôi đi bác sĩ để khám và trị theo Tây- Y và được biết đó là căn "bệnh thương hàn".
Đầu thập niên năm mươi (40- 50), trình trạng Y tế phòng ngừa và chẩn đoán bệnh cũng như thuốc men trị liệu còn giới hạn, thiếu thốn, nhất là ở vùng nông thôn Việt Nam.
Tôi còn nhớ là đã được đi lên tỉnh để khám bệnh và chích thuốc chỉ có một lần mà tôi cảm thấy khỏe và hết bệnh, nhưng tôi cũng không quên cái cảm giác đau ở mông cho lần chích thuốc đầu tiên vào lúc 5 tuổi tại phòng mạch của ông ta. Hình ảnh không gian phòng mạch, cô y tá, vị bác sĩ và cả tiếng khóc của tôi khi bị chích thuốc đau năm nào cũng chưa phai nhòa trong ký ức! Không biết là tại ông bác sĩ này giỏi, "mát tay" hay là cái duyên may đã làm cho tôi hết bệnh.
SỐNG XA NHÀ
Tôi không tin lắm vào "Số mệnh" hoặc sự khắc kỵ của người con với cha mẹ như thế nào, nhưng đúng là ngay từ nhỏ tôi đã không được sống với ba má và các em của tôi một cách liên tục.
Khi bệnh thương hàn vừa thuyên giảm, ba má lại gởi tôi sang ở nhà người bác để tiếp tục uống thuốc Tây (mặc dù hai nhà ở sát vách) và nhờ các anh chị (con người bác) chăm sóc. Sau hơn một năm, ngoại tôi ở xóm trên (cách nhà tôi 500 mét) đem tôi về ở chung với bà. Tôi còn nhớ là bà thường cho tôi ăn cơm gạo lức với muối mè, hoặc ăn với nhiều tép tỏi sống và tôi cũng không hiểu ăn như vậy để trị bệnh hay là đó là cách ăn uống của bà tôi. Mỗi buổi tối, bà thường hay dẫn tôi đến các am trong làng để đọc kinh và lạy Phật. Ông ngoại tôi bị Việt Minh sát hại, nên bà ngoại tôi phải sống âm thầm một mình với câu kinh tiếng kệ; các cậu và dì của tôi đều có gia đình ở các tỉnh xa duy chỉ có má tôi là ở gần nhưng không ở chung nhà. Ngoại tôi lúc ấy vào khoảng 60 tuổi, luôn trầm lặng, hiền từ ít nói. Tôi không thể nào quên hình ảnh bà hằng đêm ngồi trên cái ghế ở giữa trời để trì kinh, mắt khép lại, miệng thì thầm niệm "Nam Mô A Di Đà Phật" lâm- râm và trên tay lúc nào cũng có xâu chuỗi Bồ Đề màu nâu bóng loáng để lần từng hột. Khuôn mặt bà trông rất phúc hậu, miệng bà nhỏ và túm lại để thấy cái mũi cao và dài; đầu bà không để tóc và được choàng một cái khăn nâu, có lần tôi đưa tay sờ trên đỉnh đầu bà thì thấy một lỗ trũng sâu ngay tại huyệt Bách Hội, tò mò hỏi thì bà chỉ cười mà không giải thích.
Sự lưu lạc thời thơ ấu của tôi vẫn chưa chấm dứt, sau nhà ngoại, tôi lại được "thuyên chuyển" đến nhà ông bà nội để giúp đỡ ông đang bị bệnh. Ông cố nội tôi gốc người Quảng Đông bên Trung Hoa sang Việt nam lập nghiệp vào những năm đầu thế kỷ 19; Ông đã chọn Nại là nơi an cư lạc nghiệp cho gia tộc họ Trình. Nại quả thật là nơi có phong cảnh hữu tình, có dòng sông êm đềm thơ mộng mang theo tính biển mặn của Đại dương đi sâu vào đầm Nại rộng lớn, một nơi có nhiều tôm cá, hải sản... nuôi sống nhiều ngư phủ của các vùng chung quanh là Tri Thủy, Phương Cựu, Hộ Diêm, Tân An, Khánh Hội... ngoài ra, Nại được bao bọc che chở bởi các dãy núi thấp phía Bắc như núi Đá Chồng, Cà Đú, Tri Thủy, Tân An; phía Tây là các cánh đồng phì nhiêu mầu mỡ tiếp giáp các vùng Hò- Rò, Nại Giữa; về hướng Nam là đường lên tỉnh PhanRang. Lưu thông tiện lợi, không khí mát mẻ, đất đai mầu mỡ, địa lý thuận tiện có lẻ là những lý do mà ông cố nội tôi chọn Nại là quê hương thứ hai của ông.