Tác giả Sapy Đi Đi đã góp cho Viết Về Nước Mỹ loạt bài đặc biệt viết về đề tài người mẹ. Bà cho biết bà tên thật là Nguyễn Đinh Thị Dĩ, hiện hưu trí tại San Diego. Bài viết mới của bà lần này kể lại chuyến du lịch vùng Đông Bắc Hoa Kỳvào dịp “giao thừa thiên niên kỷ” đầu năm 2000, khi Tháp Đôi (World Trade Center) còn chưa bị khủng bố phá xập.
*
Vào những ngày cuối năm 1999, trong lúc mọi người đang thấp thỏm lo sợ con bọ Y2K tác yêu tác quái, có thể làm khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu, thì vợ chồng tôi vẫn có được sự thanh thản, sửa soạn cho chuyến du hành thăm viếng vùng Đông Bắc Hoa Kỳ và Canada. Ðây không phải là một chuyến du lịch bình thường, bởi chúng tôi cần đi xa để quên mau những điều không may, đã đổ ập xuống gia đình trong suốt mấy năm cuối cùng của Thiên Niên Kỷ Thứ II.
Xuyên qua khung kính nhỏ chiếc Boeing 767, tôi ngắm nhìn những tia nắng đầu ngày, rồi thầm nói lời tạm biệt Cali nắng ấm, trước lúc phi cơ cất cánh bay vào vùng băng tuyết. Chuyến này, tôi bị mất cái háo hức thường có trong những lần đi chơi xa, bởi mọi nơi sắp dừng chân, chúng tôi đều đã đi qua từ hơn mười năm về trước.
Lúc còn ngồi trong lòng chiếc máy bay ấm áp, tôi cảm nhận ngay được cái lạnh lẽo đang chực chờ bên ngoài, khi phi cơ đáp xuống phi trường John Kennedy. Chưa tới 5 giờ chiều mà bầu trời New York như đã chìm vào giấc ngủ. Thấy tôi định đứng dậy, nhà tôi bảo:
- Lát nữa họ đưa mình về khách sạn là xong một ngày du lịch đầu tiên, em không cần phải vội vàng!
Nối gót theo sau vài hành khách cuối cùng rời khỏi máy bay, vợ chồng tôi chậm rãi kéo hành lý dọc theo các lối đi thênh thang. Chẳng biết mình có mang tâm bệnh hay không, bởi đến bất kỳ nơi nào, tôi cũng đều hay nhìn người rồi ngẫm đến ta. Cho nên niềm vui được đi dưới ánh đèn sáng choang, bước trên nền gạch bóng lộn, giẫm chân lên thảm nhung êm ái của một phi trường lớn vào bậc nhất thế giới, vụt qua nhanh khi hình ảnh phi trường Nội Bài, Tân Sơn Nhất hiện lên trong tâm trí. Khiến đầu óc tôi quay về với một quê hương từng gánh chịu nhiều đau thương, tang tóc nhất do chiến tranh gây ra trong suốt một thế kỷ sắp qua đi. Giờ đây, trước lúc bước sang một thiên niên kỷ mới, người dân Việt vẫn còn nghèo khó từ miếng ăn đến các quyền căn bản của một con người.
Tôi quay về thực tại, chú tâm tìm kiếm chiếc va ly mình đang lềnh bềnh trôi theo dòng chảy của chiếc thang chuyển vận. Phụ giúp chồng lấy hành lý xong, nhìn ra bên ngoài, tôi nhận ra người hướng dẫn đang tươi cười đứng đón chờ du khách. Lúc bắt tay chào hỏi, làm quen với mấy chục người đi chung đoàn, tôi chợt nhận ra: tuy đã bước qua cái tuổi ngũ tuần, nhưng vợ chồng tôi được xem là hai người trẻ nhất trong đoàn.
*
Ngay lúc vừa bước chân ra khỏi cửa khách sạn, để khởi sự cho ngày đầu đi ngoạn cảnh. Cái giá rét liền bao trùm lấy toàn thân tôi, như chế diễu việc tôi rời nơi nắng ấm để ra đi giữa lúc đông buồn giá lạnh. Ðường phố New York tuy rộng rãi, thênh thang, nhưng trở nên chật hẹp trước lượng xe cộ cùng người qua lại quá đông đúc. Chiếc xe buýt dềnh dàng lúc nhanh lúc chậm, len lỏi qua hàng ngàn hàng vạn cao ốc thẳng tắp, để đưa chúng tôi đến viếng Tòa Tháp Đôi (World Trade Center).
Tôi không nhớ chính xác phải mất bao nhiêu thời gian, chiếc thang máy to lớn, mới đưa cả đoàn chúng tôi lên tới đỉnh. Nhưng chắc nó phải nhanh hơn tốc độ con mắt tôi đứng ngắm nhìn tòa tháp từ dưới đất lên đến tận nơi cao chót vót. Giờ đây, tất cả các cao ốc mà tôi vừa xuýt xoa chiêm ngưỡng qua khung cửa kính chiếc xe buýt, đều đã ở dưới chân. Mọi thứ tôi cho là to lớn đã trở nên nhỏ bé, nhỏ đến nỗi tôi không còn nhận ra khi đứng nhìn từ trên trời cao. Lúc mắt tôi đang dõi theo những tòa cao ốc trùng điệp, kiến tạo nên một thành phố to lớn vào nhất thế giới. Nhà tôi nhìn xa xăm rồi hạ giọng:
- Nhìn những ngôi nhà chọc trời chen chúc nhau bên dưới, làm anh nhớ đến một câu chuyện có liên quan đến việc sử dụng chữ nghĩa được lưu truyền trong sử sách. Qua đó khiến anh liên tưởng đến một câu chuyện khác mới xảy ra. Anh nghĩ cái kết thúc của câu chuyện sau này cũng chẳng khác gì câu chuyện cũ.
Tôi nhìn chồng mỉm cười chờ đợi. Nhà tôi nói tiếp:
- Em còn nhớ chuyện ông cựu Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, “con hùm xám Cai Lậy” ra kinh lý Hà Nội, được nhân sĩ Bắc Hà tặng cho bức hoành phi sơn son thiếp vàng viết 4 chữ “Ðại Ðiểm Quần Thần” không"
Tôi lắc đầu. Nhà tôi chậm rãi kể:
- Bốn chữ hán tự ấy có nghĩa là người bầy tôi giữ chức quyền to lớn nhất nước. Tấm hoành phi đã được ngài Thủ tướng treo lên một nơi trang trọng, để mọi người nhìn thấy rõ cái quyền cao tước trọng và cái vinh quang của mình. Vài tháng sau, ngài Thủ tướng cay đắng sai người gở bỏ tấm hoành phi xuống. Nghe đâu có một nhân sĩ giảng giải cho ngài hiểu: đại có nghĩa là to, điểm là chấm, chấm to nói lái thành chó Tâm. Còn 2 chữ quần thần có nghĩa là bầy tôi, lái lại thành bồi Tây. Bức hoành phi “Ðại Ðiểm Quần Thần” kia chính là câu chửi “chó Tâm bồi Tây” của nhân sĩ Bắc Hà gởi tặng ngài.
Bằng lối kể chuyện dí dỏm của nhà tôi, khiến tôi không nén được tiếng cười. Nghe xong câu chuyện cũ, tôi lên tiếng:
- Qua giai thoại dùng chữ của các cụ ngày xưa này, làm anh liên tưởng đến chuyện gì"
- Em còn nhớ một câu nói về niềm tự hòa của kẻ chiến thắng sau biến cố 30-4 không"
Tôi lắc đầu nói:
- Sau biến cố ấy, có hàng trăm hàng ngàn câu vè, câu thơ, câu chuyện... châm biếm chế độ được lưu truyền trong dân gian, làm sao em biết anh muốn nhắc tới câu nào!
Chồng tôi nhấn từng tiếng một:
- Việt Nam là đỉnh cao trí tuệ loài người!
Tôi mỉm cười gật đầu. Nhà tôi nói tiếp:
- Anh nghĩ câu này chắc cũng do một vị nhân sĩ Bắc Hà tặng cho mấy ông đang say men “đại thắng mùa Xuân” lúc đó. Nghe khen các ngài tưởng mình tài giỏi thật, liền trương câu ấy lên trên nền vải đỏ chữ vàng, cho treo khắp các đầu đường góc phố, cố rót vào tai mắt dân chúng qua các phương tiện báo chí, phát thanh, truyền hình...
Nói đến đây nhà tôi im lặng, như đang cố đẩy lùi quá khứ để quay về thực tại, giọng nhà tôi lại thao thao bên tai:
“...Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương
Cuộc chiến cũ sẽ coi là tiền kiếp
Phản động gì cũng chỉ sống trăm năm
Bồ bịch hết không đứa nào là ngụy
Thắng vinh quang mà bại cũng anh hùng”
Nơi thủ đô Mỹ Quốc, chúng tôi mừng Sinh Nhật Chúa cuối cùng của Thiên Niên Kỷ Thứ II, đúng với ý, lời bản nhạc “Hang Belem” của cố nhạc sĩ Hải Linh: “Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời”. Rồi còn được anh chị Nguyễn Bạch Mai, người bạn thân mời dùng bữa cơm tối với canh chua, cá kho tộ...
Ngồi bên lò sưởi ấm ngắm nhìn tuyết rơi cùng thưởng thức các món ăn đậm đà hương vị quê nhà, thật không còn gì tuyệt cho bằng!
*
Tiếp tục cuộc hành trình chúng tôi đến Niagara, nơi có thác nước lớn nhất thế giới, vượt biên giới qua Canada thăm thành phố Toronto, thủ đô Ottawa và thành phố Montréal. Mùa đông không mấy thích hợp cho việc đi chơi ngắm cảnh, vì bầu trời chỉ toàn một màu xám ảm đạm, mặt đất tuyết phủ trắng xóa, cây cối trụi lá trơ cành. Tôi thầm nghĩ: rất có thể vì đông buồn như vậy, nên con người nghĩ ra nhiều lễ hội vào lúc đông giá để đem nguồn vui đến cho mọi người.
Buổi chiều cuối cùng của Thiên Niên Kỷ Thứ II, phi trường nào cũng vắng khách. Chuyến bay về San Diego chẳng có mấy người đi, nhờ vậy chúng tôi có chỗ ngả lưng nằm ngủ thoải mái để quên đi chuyến bay dài. Còn hơn một tiếng đồng hồ nữa về tới San Diego, phi công trưởng thông báo:
- New York đang bước sang năm 2000!
Con bọ Y2K vẫn nằm yên, phi cơ tiếp tục bay như bình thường rồi từ từ hạ cánh nhẹ nhàng an toàn xuống phi đạo. Thời tiết San Diego lúc nào cũng đẹp, phút giao thừa gần đến, vậy mà bước ra ngoài chờ xe đến đón tôi chỉ khoác lên người mỗi chiếc áo len mỏng, nhưng vẫn cảm thấy ấm áp, còn lòng thì nhẹ nhàng, thanh thản vì những ưu phiền, những thất bại, những khó khăn của hai năm qua, chúng tôi đã chôn vùi hết dưới những đống tuyết lạnh. Một nếp sống mới vui tươi, hạnh phúc như đang vẫy gọi, mở cửa chào đón chúng tôi. Tôi thầm cầu nguyện xin bình an cho quê hương cùng dân tộc tôi trước thềm một Thiên Niên Kỷ mới.
SAPY ĐI ĐI