Nguyễn Trần Diệu Hương, hiện sống và làm việc tại miền Bắc California, là tác giả có giải danh dự Viết Về Nước Mỹ năm đầu tiên, 2001. Cho tới nay, cô vẫn không ngừng góp bài mới và trở thành một trong những tác giả được đọc nhiều nhất của giải thưởng. Bài mới nhất của cô lần này là một chuyện tình Việt Mỹ đặc biệt.
*
Ở ngoài nhìn vào, chúng tôi thấy Quỳnh có số khổ (nếu thật sự đời sống có số mạng") khổ từ nhỏ cho đến bây giờ! Nhưng Quỳnh luôn tìm thấy "hạnh phúc ở quanh đây, đâu là chuyện bất ngờ".
Quỳnh có một người anh song sinh, nhưng hai anh em chẳng giống nhau tí nào! Thạnh chỉ ra đời trước Quỳnh mười ba phút, nhưng nặng gấp rưỡi Quỳnh. Hình như Quỳnh đã biết nghĩ đến người khác và nhường nhịn từ hồi còn chưa chào đời. Quỳnh nhường cho Thạnh "ra" trước, rồi nhường luôn thức ăn từ lúc còn trong bụng mẹ cho Thạnh nên mới ra đời Thạnh đã to cao hơn hẳn Quỳnh.
Hồi còn thơ dại, học tiểu học, Quỳnh đã khác hẳn cả lớp, không chỉ ở mái tóc ngắn cũn cỡn như những ca sĩ của ban nhạc The Beatlles (mặc dù Quỳnh là con gái) mà còn khác chúng tôi ở chỗ Quỳnh vẽ rất đẹp và luôn sống trên.....mây, như trong những bức vẽ của mình.
Lên trung học, mỗi lần thầy, cô giáo dạy môn văn, gọi Quỳnh trong giờ phân tích những tác phẩm văn chương Quỳnh luôn có những ý kiến trái ngược người khác. Quỳnh còn chơi bóng bàn rất hay mặc dù thân thể Quỳnh lúc đó dẹp lép, nhỏ con, không có chút gì là một vận động viên bóng bàn cấp liên trường. Bởi vậy chúng tôi gọi Quỳnh là "Quỳnh Omega" để phân biệt với "Quỳnh Hercules" rất to con, cũng chơi thể thao rất giỏi.
Lớn lên, Quỳnh càng lúc càng khác người, nhưng cái khác người rất dung dị, dễ mến. Quỳnh chưa bao giờ đi học một trường lớp nào về hội họa, nhưng vẽ rất đẹp, và mê trường phái đầy màu sắc, rất khó hiểu của danh họa Picasso. Khi qua Mỹ, có điều kiện đầy đu,û Quỳnh vùi đầu vào thư viện vừa để học bài, vừa để tìm hiểu thêm về Picasso. Thế giới muôn màu của những họa sĩ đã tạo cho Quỳnh một nhân sinh quan càng ngày càng khác lạ. Quỳnh mê thiên nhiên và thích vẻ đẹp nguyên thủy tự nhiên. Điều đó không ngờ thành định mệnh sau này của Quỳnh.
Năm học thứ hai ở Community College, Quỳnh có một ông thầy dạy Philosophy gàn như đa số các triết gia. Ông ta đi dạy bằng xe đạp hoặc đi bộ, vì không biết lái xe hơi, và vì không muốn lái một phương tiện di chuyển phổ thông như hơn hai trăm triệu người Mỹ vẫn gọi là Dutch Pennsylvania. Ông thầy này là người Amish, thuộc dòng dõi lớp người Đức đầu tiên dân đến Hoa Kỳ từ thời nhưng người Châu Âu theo con tàu May Flower cùng Columbus đặt chân đến lục địa Bắc Mỹ. Con cháu những người Đức bảo thủ đầu tiên đó vẫn giữ cách sống từ thế kỷ mười chín, nghĩa là họ tự chế tạo đồ dùng, phương tiện di chuyển là ngựa, và vẫn giữ những nhà máy xay bằng lực đẩy của gió. Từ chối những tiện nghi mà khoa học mang đến cho nhân loại, mãi cho đến bây giờ, họ vẫn sống rất đơn giản, đạm bạc, giữa những đồng cỏ mênh mông, trên một phần đất nhỏ của hai tiểu bang Pennylvania và Wisconsin. Ngừơi Amish rất khéo tay, tuy không sống đời du mục, họ có kiểu sống quây quần như bộ lạc. Họ vẫn học hành, nhưng chỉ học hết học đến hết lớp tám, nghĩa là hết Junior High. Vì theo họ, với đời sống không cần tiện nghi do khoa học mang lại, giáo dục từ bậc trung học (High School) trở lên không cần thiết. Vậy mà, không hiểu lý do nào, ông thầy người Amish của Quỳnh lại có bằng Master về triết học. Ông ta không chịu học lái xe, mặc dù đã về sống ở một thành phố lớn, ra khỏi "lũy tre làng", bỏ lại sau lưng những nhà máy xay lúa, những cái giếng quay tay từ thế kỷ mười chín của cộng đồng Amish, những con ngựa hiền từ, nhẫn nại của người Amish từ cánh đồng này đến cánh đồng khác.
Ông thầy của Quỳnh, ở giữa thành phố lớn Dallas rất văn minh hiện đại ở trung tâm nước Mỹ, vẫn sống đơn giản như truyền thống người Dutch Pennsylvania, nhưhg lại thích học hỏi, thích đời sống khoa bảng.
Theo nguyên tắc vật lý, điện cùng dấu đẩy nhau, điện khác dấu hút nhau. Vậy mà, cả hai người, như hai điện tích cùng dấu, có nhiều điểm tương đồng: cùng tốt, cùng xem vật chất "nhẹ như lông hồng", cùng không thực tế chút nào, là ông thầy và Quỳnh đều ngầm để ý đến nhau đặc biệt. Ông thầy chú ý cô sinh viên lè phè bụi đời, tóc hoe vàng, không phải vì thuốc nhuộm tóc, mà vì nắng mùa hè khô nóng của Texas. Cô học trò chẳng giống ai, Mỹ không ra Mỹ, Tây chẳng ta Tây, Tàu cũng chẳng phải Tàu, càng không giống Việt Nam chút nào, nhưng thông minh, chăm học. Quỳnh rất thích học giờ Triết của thầy, và tìm thấy ở thầy những lời giảng từ tim óc, từ lòng yêu nghề đặc biệt, chứ không phải vì những cái paycheck mỗi hai tuần. Đời sống theo lối người Amish đâu có cần đến nhiều paycheck!
Ở giờ học đầu tiên, khi điểm danh học trò, ông thầy không thể phát âm chữ "Quỳnh" chính xác mặc dù Quỳnh đã phát âm rất chậm cho ông nghe hai lần, ông đành gọi Quỳnh với chữ tắt là "Q". Quỳnh rất thích cách gọi này, vì "Q" phát âm theo kiểu Mỹ gần giống như "cute", nghĩa là dễ thương. Đàn bà, con gái baogiờ lại chẳng thích mình được khen làdễ thương. Ông thầy lại gọi tên Quỳnh là "dễ thương", lý do đó đủ để Quỳnh nhớ ông thầy người Amish nhất trong số rất nhiều thầy cô trong những năm đại học.
Mùa học trôi nhanh, Quỳnh chyuển lên trường đại học khác, và hình ảnh của ông thầy dạy Triết cũng được xếp ở một xó nào trong ký ức đầy màu sắc của Quỳnh. Đến khi sắp ra trường, nhìn lại yêu cầu, thấy mình thiếu mất một lớp General Education, Quỳnh quay về Community College lấy thêm một lớp Micro- Economics để hoàn thành yêu cầu căn bản về kiến thức tổng quát cho bằng Cử Nhân. Học ở Commuity College vừa rẻ, vừa dễ hơn học ở hệ thống đại học 4 năm, nên Quỳnh có thời giờ ngẩng đầu ngắm trời, trăng, mây nước mỗi lần về học ở Junior College.
Định mệnh tình cờ, một lần đang ngồi ở sân vận động của trường vừa đọc sách, vừa nhìn một chút nắng vàng hiếm có của mùa đông Texas, Quỳnh gặp lại ông thầy dạy triết đặc biệt của hai năm trước. Ông thầy khoác cái cặp sau lưng như học trò, đang tản bộ trên lối đi giữa những thảm cỏ xanh chung quanh sân vận động. Thầy trò nhận ra ngay "đối tượng đặc biệt" của mình, và cùng ngồi ở những bậc thang của sân vận động, nhìn trời, nhìn đất, ban đầu nói chuyện trời mưa, trời nắng, sau đó trao đổi về nhân sinh quan rất đặc biệt của nhau.
Ông thầy kể cho Quỳnh chuyện về lại làng Amish ở Pennsylvania thăm nhà, cái quạt xay gió vẫn thân thương, bánh mì làm từ hạt lúa mì tự trồng lấy vẫn ngọt ngào, kiểu ăn mặc cổ kính của đàn bà con gái Amish vẫn còn sức hấp dẫn, nhưng tất cả đã không còn sức cuốn hút như ngày ông còn ở trong vòng rào của cộng đồng Amish.Về lại Dallas, ông luôn nhớ nhà, nhớ đời sống cô lập gần gũi thiên nhiên, nhưng trình độ của một người có bằng master không thể nào thích hợp ở một cộng đồng quan niệm trình độ giáo dục trên lớp tám là không cần thiết. Vì lẽ đó, ở nơi nào ông thầy của Quỳnh cũng thấy cô đơn, cái cô đơn của một người sống trong một cộng đồng, nhưng thấy mình không thuộc về cộng đồng đó.
Quỳnh chăm chú nghe ông thầy kể chuyện, và liên tưởng đến nhiều người Việt Nam lớn tuổi sống đời lưu vong ở Mỹ, cũng có tâm trạng tương tự tâm trạng ông thầy dạy Triết của mình.
Ở quê hương thứ hai rất nhiều người Việt Nam, nhất là những người lớn tuổi, đến Mỹ muộn màng, không còn đủ thời gian để hội nhập vào đời sống mới, luôn thấy mình đứng bên lề cuộc sống ở đất nước hợp chủng quốc văn minh, giàu có. Buồn thay, chọn lựa thứ hai của họ, đời sống ở quê nhà cũng không phải là chọn lựa hợp lý, vì về lại quê nhà, họ thấy mình lạc loài giữa cuộc sống đầy dối trá, lọc lừa, bất an ngay trên chính quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Thôi thì, dù sao, thấymình lạc lõng ở quê người vẫn đỡ xót xa hơn thấy mình lạc loài ngay trên quê cha đất tổ.
Tương tự như thế, ông thầy của Quỳnh chọn lựa đời sống ở Dallas, mặc dù ông vẫn luôn bỏ một phần tư tưởng hướng về làng Amish, nơi ông đã trải qua ấu thơ và thiếu thời êm đềm hạnh phúc, nơi những người thân yêu của ông vẫn hài lòng, an phận với đời sống đạm bạc, gần gũi thiên nhiên.
Từ hai khía cạnh khác nhau, ông thầy và Quỳnh đều cảm nhận được nổi cô đơn, lạc loài của một người sống không đúng chỗ của mình, nhưng không làm gì được để thay đổi tình thế. Ít nhất, họ cũng tìm được tình bạn, ngoài tình thầy trò.
Mỗi khi có giờ rảnh, Quỳnh và ông thầy lại mang giá vẽ, mang sách ra công viên. Ở đó thay vì "bên anh đọc sách bên nàng quay tơ" như trong một câu ca dao ở thế kỷ 19 của Việt Nam, ông thầy đọc sách, và Quỳnh vẽ, lúc nào mỏi mắt, họ cùng nhìn trời và nhìn nhau, thông cảm với "nổi lòng Từ Thức" của nhau.
Mùa hè, cả hai người cùng đạp xe đạp đến một góc công viên của thành phố, nơi họ vẫn ngồi vẽ, hay đọc sách.
Khi đông về, trời lạnh cóng, ông thầy và Quỳnh gặp nhau ở thư viện hay ở tiệm cà phê Starbucks. Quỳnh dịch ra tiếng Anh cho ông thầy những câu thơ của Nguyễn Khuyến "Thu ăn măng trúc, Đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen, Hạ tắm ao" hay của Nguyễn Công Trứ "Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc. Tri nhàn tiên nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn". Ông thầy người Mỹ gốc Đức mê tít nhân sinh quan của những nhà nho Việt Nam vào thế kỷ mười chín, mê văn hóa Việt Nam, và từ từ mê luôn cô học trò cũ người Mỹ gốc Việt Nam.
Tình thầy trò của họ sau ba năm biến thành tình bạn, rồi tình yêu từ lúc nào cả hai cùng không nhớ.
Ba Mẹ Quỳnh biết chuyện, không ủng hộ, nhưng cũng không phản đối. Sinh con ra, ông bà biết tính từng đứa, nhất là Quỳnh, đứa con áp út ít nói, hiền lành, nhưng rất cương quyết trong việc bảo vệ lập trường của mình. Vả chăng, ông thầy cũ dạy Triết của Quỳnh, và là ông con rể tương lai của ông bà, khá hiền lành, lễ phép, chỉ phải tội không được tháo vát lắm. Nhưng chắc là mẫu người đó hợp với Quỳnh, vì đời sống của Quỳnh vốn đơn giản, từ thời nhỏ cho đến bây giờ. Quỳnh không phải là loại người mê vật chất, lại chịu khó, và ít để ý đến dư luận chung quanh. Nếu Quỳnh về làm dâu một gia đình người Amish, chắc là vẫn êm xuôi, hạnh phú.
Nguyễn Trần Diệu Hương
(Đầu năm 2005- Viết cho TH, hoa hồng vàng của Texas)