Người viết: ĐT ĐÀO
Bài số 736-1315-83-vb3-042605
Tác giả là thứ nữ trong một gia đình cựu sĩ quan VNCH, sinh tại miền Bắc, năm 1954, di cư vào Nam, năm 1975 dắt díu ba đưa em di tản từ Nha Trang vào Saigon, rồi một mình sang Mỹ khi mới 24 tuổi. Lần đầu tham dự viết về nước Mỹ vào đúng dịp kỷ niệm 30 năm miền Nam sụp đổ, bà kể lại chuyện của chính gia đình bà.
*
Tôi sanh ra tại một thành phố miền Bắc xa xôi cạnh biên giới Trung Hoa trong chuyến chinh chiến giong ruổi của bố tôi.
Năm 54, tôi trở thành dân di cư như những con người yêu tự do khác và lớn lên tại miền Nam thân yêu đầy kỷ niệm.
Tôi nhớ hồi còn nhỏ, chị em tôi được đưa đi học bằng xe Jeep nhà binh vì bố tôi là sĩ quan trong sư Đoàn 5 dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Gia đình tôi ở nhiều nơi bố đóng quân, nhưng nhớ nhất vẫn là những tháng ngày niên thiếu ở Sông Mao đầy kỷ niệm của tuổi học trò.
Tôi rời trường Đa Minh lúc dang dở lớp Đệ Ngũ để lên Nha Trang ở với mẹ. Suốt thời gian hai năm ở chung với mẹ, tôi được ăn đòn nhiều hơn ăn học bởi vì tôi phản đối lối sống của mẹ.
Năm mười sáu tuổi, sau một trận đòn thâm tím, tôi bỏ Nha Trang đi Cam Ranh ở với nhỏ Ngọc Mỹ, và nhờ xin vào làm thư ký ở hãng Pacific Architects với tờ khai sinh giả mười tám tuổi. Nhờ đó mà mỗi tháng tôi có thể nhờ gởi tiền về cho bố tôi nuôi các em còn ở tại Sông Mao.
Ba năm sau, bố và các em dọn đi Tam Hiệp, ba đứa em lên Nha Trang ở với tôi khi tôi được vào làm trong phòng Thông Tin của hãng ở Nha Trang và lúc đó, tôi ghi danh trở lại trường Nữ Trung Học vào lớp tối.
Lúc này, mẹ tôi ở riêng với đời sống của bà.
Trong tuổi hoa niên, tôi cũng đã có những tình cảm riêng tư nhưng không bao giờ thố lộ. Vì hoàn cảnh gia đình không giống ai, tôi đã tự giam mình vào cái vỏ ốc tự ti mặc cảm, vả lại, trong thời gian đó, với gánh nặng gia đình trên vai, ngày đi làm, tối đi học nên tôi tìm được bình yên và thản nhiên với nhiều tấm chân tình.
Lúc tôi sửa soạn thi Tú Tài thì biến cố 75 xảy ra. Trong tháng 3, 1975, từ các tỉnh miền Trung, từng đoàn người lũ lượt đổ xô về Nha Trang tạo nên cảnh hỗn loạn. Thêm vào đó, các anh lính bất mãn của Sư Đoàn 23 trong một thành phố bỏ ngỏ nên càng hỗn loạn hơn. Chúng tôi rời Nha Trang vào những ngày binh lửa đó, dùng bất cứ lối vận chuyển nào, từ đi bộ cho đến quá giang xe, leo lên sau xe nhà binh, bám vào thành xe nhà, v.v…cuối cùng chúng tôi vào thành phố Sài Gòn sau một tuần lễ cam go, khổ nhọc, mỗi người mang một bọc quần áo trên tay.
Những người dân thành phố thấy chúng tôi tất tả, rách rưới, nhìn chúng tôi với ánh mắt đầy câu hỏi như thể người Sai Gòn chẳng biết gì xảy ra ở miền Trung.
Tôi dắt díu ba đứa em đi được tới Sài Gòn vào cuối tháng 3, 1975 cũng nhờ sự giúp đỡ của một người mà tôi vẫn không quên món nợ ân tình ấy.
Chị em chúng tôi ở Bà Quẹo với gia đình chị Bồng được một tuần lễ thì tôi đưa các em về Tam Hiệp với bố. Tôi lên Saì Gòn liên lạc với văn phòng trung ương của hãng và được lãnh tiền luơng tháng 3 và lương nghỉ việc, xấp tiền to ấy tôi mang về cho bố. Sau này các em tôi kể lại rằng bố tôi cất số tiền ấy kỹ đến nỗi khi đổi tiền nó trở thành một đống giấy vụn.
Tôi cũng xin được cho gia đình lên danh sách đi Mỹ. Cầm danh sách trong tay, tôi về Tam Hiệp nói chuyện với bố, ông ngập ngừng bảo sẽ ngưng bắn và sẽ hoà bình, không nên đi nữa. Tôi đã bỏ ý định tản cư vì gia đình không ai muốn đi.
Sáng sớm ngày 28 tháng 4, từ Sài Gòn, xếp nhắn tin về bảo cả đoàn đang chờ gia đình tôi.Tôi vội lên Sài Gòn để trả lời cho ông xếp huỷ tên trong danh sách, lúc đó, ông ấy đang di chuyển gia đình vợ tới Tân Sơn Nhất và bảo tôi đi cùng, tới TSN sẽ nói chuyện sau.
Tôi trèo lên xe nhà binh vào phi trường với gia đình ông xếp vào trưa ngày 28 tháng 4 rồi không trở ra được nữa. Tôi bay đi đảo Guam trong đêm tối 29 tháng 4. Qua khung cửa kính nhỏ, tôi nhìn thành phố qua những lằn đạn đỏ rực xé trời, những tiếng nổ và những đám khói đen trong thành phố bên dưới.
Tôi đến Guam với tâm trạng như tỉnh như mơ với chiếc áo dài rách tà, đi chân đất vì lúc giành giựt lên máy bay hỗn loạn, giày dép văng đi từ lúc nào không biết. Tôi chưa bao giờ ra phố một mình, ngoại trừ khi đi làm, đi đâu lúc nào cũng có một đứa em tháp tòng, kể cả những lần có bạn trai đến rủ đi xem hát. Tôi ra đi khỏi nước mà trong túi chỉ có hai chục ngàn tiền Việt Nam để ăn quà vặt và một tâm trạng tang thương đầy sợ hãi.
Tôi cô đơn trong đám người lưu lạc nên khóc đòi về, xếp bảo khi tình hình lắng dịu, ông cũng về vì cha mẹ vợ còn chưa đi được. Rồi chúng tôi được đưa tới một hangar máy bay, ngủ trên giường bố nhà binh, đắp mền nhà binh, mặc quần áo Hồng Thập Tự.
Qua được một đêm thì máy phóng thanh tuyên bố Sài Gòn thất thủ, cả hangar đầy tiếng khóc vì nhiều người có thân nhân còn kẹt lại. Và từ đó, tôi bơ vơ năm hai mươi bốn tuổi, không gia đình và bỏ lại sau lưng một tấm chân tình…
Chúng tôi được di chuyển đến trai tỵ nạn Pendleton vào giữa tháng 5, 1975. Tại nơi đây, tôi đã ghi danh với tàu Việt Nam Thương Tín để trở về. Và cũng tại nơi đây, tôi gặp một người lính cùng cảnh ngộ, anh bỏ lại cha mẹ và bảy đứa em để thoát thân trong giờ phút cuối cùng. Anh đã thuyết phục tôi ở lại với những ân cần săn đón. Hai con người lưu lạc gục vào vai nhau khóc nhớ thương gia đình, níu vào nhau mà sống và đã kết hợp trong một buổi lễ cưới tập thể với một cặp nhẫn trơn quá khổ mượn từ ai đó trong buổi lễ.
Từ đó, tôi ra khỏi cái vỏ ốc bình yên.
Chúng tôi hai đứa tỵ nạn đến tiểu bang Utah trong trời tuyết lạnh giá. Năm đầu, tôi vừa đi học y tá và anh ngữ, vừa đi làm tại hãng sản xuất dụng cụ y khoa. Năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, tôi thôi học, chỉ đi làm và nuôi con nhỏ. Hạnh phúc gia đình như trong tầm tay.
Ngày con tôi ra đời là ngày sóng gío bắt đầu từ một cú điện thoại như từ một quá khứ không mong đợi. Tấm chân tình ngày xưa đã vượt đại dương, nhờ hội Hồng Thập Tự tìm tôi khắp bốn phương trời để mong ngày xum họp. Thực tế phũ phàng đã làm con người cứng cỏi này trở nên hận thù với con tim tan vỡ và rồi bặt tin luôn từ đó. Chuyện đó không làm tôi bận tâm vì tôi chưa bao giờ đáp lại chân tình ấy và cũng chưa bao giờ hứa hẹn trăm năm.
ĐT ĐÀO