Tác giả lần đầu tham dự viết về nước Mỹ bằng cách kể chuyện ba chặng đường của một thuyền nhân tị nạn tại Hoa Kỳ. Mong ông sẽ tiếp tục viết thêm và bổ túc dùm sơ lược tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
RA ĐI
Tháng hai năm tám mươi, vài ngày sau tết, bất ngờ và vội vã, ra đi mà không từ giã được một ai, dẫu là người thân trong gia đình. Hành lý chỉ có vài bộ đồ, ít tiền mặt cho hành trình và vài tấm hình để làm kỷ niệm sau nầy nếu đi thoát và còn sống. Rời nhà thật sớm, mặt trời chưa lên, những người bạn hàng ở vỉa hè trước nhà vẫn còn im lìm trong giấc ngủ. Con phố thật yên lặng trong vô tình, hai mẹ con lặng lẽ bước theo chân người đàn ông dẫn đường phía trước. Chiếc cầu nhôm dã chiến bồng bềnh theo bước chân, nó lớn vừa đủ cho một người bộ hành, nằm song song với cái cầu quay gãy đổ bởi mìn trong những ngày còn chiến tranh, bắc qua con sông độc nhất đỗ ngang lòng thành phố. Ghé vào quán cà phê bên đường, ngồi chờ chuyến xe để đi đến điểm hẹn khác. Bên trái là bến xe Cần-Thơ, bến xe Cần-Thơ bởi vì nó là chỗ tập trung những chuyến xe rước hành khách đi những tỉnh lỵ phía trên của thành phố, Cần-Thơ là điểm tới đầu tiên và Sài-Gòn là điểm tới cuối về hướng bắc của tuyến đường. Bên phải, bên kia đường là nhà một thằng bạn chí thân. Thinh ước mong nó bước ra cửa, thấy mình để có cơ hội chào từ biệt. Người ta dặn không được tự ý tách rời và tiếp xúc một ai trên đoạn đường đi vì lý do an toàn, nếu cãi lời thì họ sẽ bỏ rơi. Người đàn ông dẫn đường ban sớm thay thế bởi một người đàn bà tuổi ngoài bốn mươi với gương mặt trông hơi quen. Chiếc xe con Daihatsu nhỏ nhưng rộng thênh thang với ba người hành khách đặc biệt lăng bánh rời tỉnh lỵ nhỏ với bao nhiêu kỷ niệm từ thủơ bé. Người đàn bà xoay lại và nói với mẹ, giọng nói nghe chân tình và gần gũi. Vào giờ chót, tổ chức quyết định mướn xe riêng thay vì đi bằng xe đò như đã tính trước. Họ sợ nhiều người nhận ra cô trên xe đò thì chuyến đi có thể bị phát giác. Thinh vẫn không nghĩ ra người đàn bà nầy là ai mà gương mặt đã gặp một lần ở nơi nào đó. Đổi một chuyến xe ở bến xe mới Cần-Thơ, mẹ và người đàn bà trao đổi lời chúc và chia tay. Bà là vợ người bạn cố cựu và tín cẩn của mẹ. Buổi chiều, tới thị xã ven biển, Rạch-Giá, chủ nhà là một cụ già người gốc Hoa và cô con gái ngoài hai mươi. Sự tiếp đãi thật chân tình và chu đáo, Có lẻ tại vì họ được trả chi phí hậu hĩ bởi tổ chức đưa người vượt biển hoặc vì lòng ưu ái của người ở lại dành cho người sắp sửa bước vào chuyến đi một mất một còn.
Giai đoạn đổ người lên ghe đã hoàn tất. Giai đoạn kế tới là làm sao thoát ải của tàu tuần biên. Chiếc ghe dài mười lăm thước với một trăm năm mươi thân xác ngồi san sát bên nhau, trên và dưới khoang. Rời bờ dưới ánh rạng đông, biển vắng và yên, niềm vui và hy vọng hiện trên những gương mặt và ánh mắt. Qua khỏi đảo Phú-Quốc không bao xa thì máy ngừng chạy, buổi chiều trước khi trời sụp tối thì máy chạy trở lại. Chiếc ghe từ từ tiến xa ra biển với vận tốc thật khiêm nhường, tựa như lòng người, nó còn vương vấn bịn rịn khi rời đất mẹ.
Ngày thứ hai trên biển chậm chạp trôi qua, mặt biển trong xanh và phẳng lặng. Nhịn đói và khát hai ngày qua, mấy đòn bánh tét mang theo bị lạc mất lúc nào không hay. Mỗi người được chia vỏn vẹn một muỗng canh nước, những giọt nước có màu vàng khè với mùi khai của sắt từ cái đáy của cái thùng phi rỉ sét. Đêm tối đến cùng lúc với cơn biển động và mưa nặng hạt, từng con sóng nhồi tưởng chừng như muốn nuốt trửng chiếc ghe nhỏ nhoi với đám người ướt át tội nghiệp. Thinh nghỉ rằng lúc nầy ai cũng như ai đều phó mặc số mệnh cho bề trên. Từ xa bóng dáng con tàu biển to lớn tiến tới gần và lẳng lặng bỏ đi xa, mặc cho đám người trên ghe thay nhau hò hét, dùng ánh đèn pin nhỏ xíu ra hiệu cầu cứu. Có lẻ trên con tàu đó người ta cố tình lẩn tránh, bởi qua kinh nghiệm của các con tàu khác đã gặp phải rắc rối về vấn đề định cư cho những người mà họ đã cứu vớt. Tiến tới xa hơn, giàn khoang dầu với những ánh đèn sáng rực như một thành phố nhỏ vươn cao vòi vọi giữa đêm đen của biển. Một số người nẩy ra ý kiến ghé vào cầu cứu, nhưng vì sợ sóng sẽ đập vỡ ghe khi va bào cột trụ của giàn khoang, cho nên mọi người cùng quyết định tiếp tục hành trình. Ngày thứ ba trên biển mang niềm hy vọng mới, con tàu đánh cá Thái Lan đồng ý kéo ghe vào bờ sau khi nó chấm dứt kéo mảng lưới cuối cùng. Những người chài Thái thay nhau mang cháo, nước, bánh kẹo, thuốc lá phát cho người trên ghe. Trời sập tối, một lũ tàu đánh cá Thái Lan khác bao vây với ý định cướp bóc. Người tài công lái ghe cập bên mạng hông con tàu lớn. Đám hành khách khốn khổ vội vã nhảy sang với hy vọng được sự che chở của con tàu thiện ý. Bọn tàu cướp biển tiến lại gần hơn. Sau cùng, qua sự thương lượng của người chủ con tàu phúc thiện, bọn cướp đồng ý chỉ lấy của rồi ra đi, không hành hung người và không hãm hiếp đàn bà phụ nữ. Dưới ánh sáng mù mờ của cuối đêm, hình ảnh xam xám của đất hiện lên lẫn với bóng cao của bờ đá dọc theo bờ biển. Tạm trú dưới mấy cái lều dựng lên giữa cái sân của trạm cảnh sát trên đảo. Ở đây đã có vài nhóm người vượt biển tới trước. Mỗi ngày số người được chia thành tổ, thay phiên nhau nấu cơm và bữa ăn. Ngủ trên chiếc chiếu trải trên mặt đất. Xếp hàng chờ đến phiên mỗi khi dùng cầu tiêu tiểu hay tắm rửa. Được một tháng thì chuyển đến trại tập trung Song-Khla trên đất liền.
Gặp lại em gái trong khi làm thủ tục để nhập trại. Người chồng của gia đình hàng xóm dẫn nó theo trong chuyến đi hồi cuối năm bảy mươi chín. Những câu thăm hỏi vội vàng trong sự mừng rỡ chen lẫn cái buồn đột ngột. Cô Út, người vợ và hai người con gái đã không đến được bến bờ. Ghe của họ bị tàu hải tặc tông vào và chìm trên biển, chỉ vài người đàn ông biết bơi lội còn sống sót mang tin vào trại. Buổi chiều cùng ngày, trình giấy tờ chứng minh là mẹ và anh ruột, đưọc nhập hồ sơ của nó và được phỏng vấn để cứu xét cho đi định cư cùng một lúc.
Những ngày trong trại thật dài và trống trải. Sáng sớm cổng trại mở rộng, cách hàng rào độ mười thước một cái chợ chòm hỏm nhóm bởi dân địa phương mang thổ sản bán lại cho người trong trại. Buổi chợ kéo dài đôi ba tiếng đồng hồ rồi tan. Hơn hai mươi dãy nhà lá dựng song song với nhau. Dưới mái là dãy sạp cây chạy dài từ đầu nầy đến cuối đầu kia.
Ban đêm người nằm ngủ vai kề vai, sau nầy vì số lượng người nhập trại tăng nhanh, thành ra người dến sau ban ngày phải trú dưới bóng mát của những rặng cây dọc theo bãi biển, ban đêm trải chiếu ngủ dài trên bãi cát. Dọc theo Đại Lộ Hoàng Hôn, cái tên đặt cho lối đi chánh nối liền đầu trại đến cuối trại, chạy dọc theo bãi biển, la liệt những quán cốc cà phê, hủ tiếu mà chủ là những người kỳ cựu chưa đi định cư vì lý do nầy hay lý do nọ và được thân nhân đã định cư ở các nước khác gởi tiền trợ giúp. Hầu như cả trại dùng chung một thời khóa biểu lập lại từ ngày nầy qua ngày khác. Buổi sáng xếp hàng làm vệ sinh, lãnh thực phẩm, nấu ăn, la cà mấy quán cốc, tắm biển, đi dạo dọc trên bãi cát, thăm viếng người quen ở dãy nhà bên cạnh..., và từng đợt người rời trại để đi định cư ở một bến bờ xa lạ.
ĐẤT MỚI
Ngày thứ nhì tháng sáu năm tám mươi. Ngày đầu tiên gia đình tái hợp sau năm năm ly cách. Buổi tối ở phi trường, gương mặt ai cũng giọt rắn giọt dài. Thời gian tưởng chừng như ngưng lại, chuyện dài chuyện ngắn kể nhau nghe không bao nhiêu mà đủ. Ngoài kia trời đã hừng sáng mà không một ai cảm thấy mệt mỏi. Người lớn thì không thấy nhiều thay đổi, mấy đứa cháu bây giờ thì lớn vụt, nói tiếng nước người nghe như thể tiếng chim, còn tiếng mẹ đẻ thì ngập ngừng khốn khổ.
TRỞ VỀ
Chiếc máy bay Boing 747 rời phi trường Los-Angeles với khoảng năm trăm hành khách trong bụng, đa số là Việt-kiều về thăm thân-nhân còn ở lại, một ít là người nước khác đi du lịch hay đi cho việc làm ăn. Bên ngoài, trời tối đen, khởi hành vào ban đêm của bên nầy và tới nơi vào ban ngày của bên kia bờ đại dương. Bên trong lòng chiếc máy bay những chiếc đèn trần tỏa xuống ánh sáng vàng dịu. Ở độ cao đã định, những chiếc cửa sổ được đóng lại. Một cách để đánh lừa giác quan của con người về thời gian và để điều chỉnh giấc ngủ khi di chuyển bằng máy bay từ nửa bên nầy đến nửa bên kia của trái đất. Những phần ăn và nước giải khát chất đầy trên mấy chiếc xe nhỏ vừa với lối đi lọt giữa hai hàng ghế chạy dài theo thân máy bay. Những chiêu đãi viên phân phát mỗi hành khách phần ăn và nước uống. Những chiếc vô tuyến truyền hình gắn trên trần được mở lên. Với cái 'ear phone' trên đầu, người vừa theo dõi vừa lắng nghe tiếng trên tivi, người lắng nghe chương trình ra-dô, người đọc báo chí, người chìm trong giấc ngủ với tấm chăn nhỏ phủ trên mình. Mọi tiện nghi và sự an toàn cho con người mà Thinh đã không có khi Ra Đi.
Rời máy bay ở Tai-Pei. Từ đây, hành khách chia ra nhiều nhóm nhỏ, chuyển qua các chuyến bay khác nhau để đi về Việt-Nam. Trong khi chờ đợi cửa quầy vé mở cửa để đổi vé cho chặng đường kế tới, kẻ tới trước người tới sau lần lượt xếp hàng theo thứ tự. Hoàn toàn không một sự chen lấn hay cãi vã. Nhân viên sân bay sẵn sàng hướng dẫn và giúp đỡ theo lời yêu cầu của những hành khách mà không hề đòi hỏi một khoảng thù lao hay bù đắp nào. Thinh chợt nghỉ người ta có thể đánh giá được sự văn minh và trình độ văn hóa của một dân tộc bằng cách nhìn vào sân bay, nhà khách và tinh thần phục vụ của các viên chức.
Sau lời thông báo của viên phi công, hành khách bắt đầu nhốn nháo, lao xao nhìn qua những khung cửa sổ nhỏ hai bên hông chiếc máy bay. Bên dưới, làn nước xanh mát của biển phẳng lặng như tờ giấy mỏng. Xa xa, lằn giáp nối của nước và bờ hiện lên mỗi lúc một gần. Miền trung của Việt-Nam, nơi mà Thinh không có dịp đi tới khi cuộc chiến tranh đang diễn tiếp.
Chốc lát đây, Thinh sẽ gặp và nhìn Sài-Gòn, trong nổi xôn xao của người trở về lần đầu kể từ ngày vượt biển...
Thuyền Nhân