Trong kết quả Giải Thưởng Viết Về Nước Mỹ đợt sơ kết IV, năm đầu tiên 2000-2001, có tác giả Phạm Thị Từ Ái, cư dân Nam California, cựu học sinh trường Westminster, được trao tặng giải thưởng đặc biệt, với bài viết mang tựa đề “Tự Do ở Việt Nam và Trung Học ởÛ Mỹ”. Vì sự sơ xuất của nhóm biên tập, trong sách “Viết Về Nước Mỹ” tập I và II –và cả khi nội dung sách được phổ biến trên Việt Báo Online- đã không có bài viết kể trên.
Nhóm biên tập trân trọng cáo lỗi cùng cô Phạm Thị Từ Ái và xin phổ biến bổ túc trên Việt Báo Online bài viết được giải thưởng của tác giả Từ Ái.
TỰ-DO Ở VIỆT-NAM VÀ TRUNG HỌC Ở MỸ
Người viết: PHẠM THỊ TỪ ÁI
Bài tham dự số: 02-215b-vb0415
Từ Ái đã biểu diễn đàn tranh tại trường Westminster, trong ngày International Day, 23.4.1995. Đây cũng là dịp cô học trò gốc Việt nhận hoa mừng sinh nhật do bà hiệu trưởng tặng và nghe khán giả hát “happy Birthday” cho cô. Bài viết về nước Mỹ của Từ Ái nói lên được những nỗ lực và thành tích quí giá của tuổi trẻ Việt trong học đường Mỹ.
Phạm-thị Từ-Ái sinh năm 1978, sinh viên UCI. Hiện cư trú tại Westminster, Nam California. Tới Mỹ ngày 27.8.1991 cùng với mẹ và 2 em trai, qua sự bảo lãnh của cha là người đã định cư tại Mỹ năm 1988. Ước vọng làm bác sĩ sản khoa trong tương lai.
*
"Tự-do", hai chữ thật đơn giản, nhưng tôi không biết định nghĩa thế nào cho đúng. Ở Việt-Nam, bất cứ văn kiện gì cũng phải mở đầu bằng: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
Vậy," Tự-do" là một khẩu hiệu"
Khi lên 5 tuổi, 1983 ở Việt-Nam, tôi đã biết đọc, biết viết và đã hoàn tất chương trình lớp 1. Chẳng may, nhà nước qui định phải đủ 6 tuổi mới được học lớp 1. Vì thế má tôi xin cô giáo cho tôi được "dự thính" - Tức là không có tên trong danh sách chính thức - Cuối năm, mặc dù tôi xuất sắc tất cả các môn và là học trò giỏi nhất lớp; nhưng tôi phải học lại, vì chưa đủ 7 tuổi để lên lớp 2. Mặc dù ba tôi yêu cầu cô giáo viết thư giới thiệu và xác nhận thành tích học tập của tôi để nộp kèm theo đơn xin Thủ-Tướng chính phủ cứu xét cho tôi lên lớp 2. Nhưng có lẽ Thủ-Tướng không nhận được đơn, hay nhận được mà không bận tâm việc nhỏ nhặt như thế, nên không có thư trả lời. Tôi bị bạn bè chế diễu là "dốt, ở lại lớp !" Tôi chỉ biết khóc vì uất ức, về nhà nói lại mà thôi. Tự-do của tôi lúc ấy là sự cứu xét của Thủ-Tướng, nhưng ngài không xét và tôi đã mất nó.
Đến khi thi chuyển cấp lên lớp 6, tôi là một trong những học sinh xuất sắc nhất. Tôi "bị" ban cho "vinh dự" phải chọn Nga văn làm ngoại ngữ. Tất cả học sinh giỏi đều phải học tiếng Nga. Đó là chính sách của nhà nước. Trong khi hầu hết con cháu cán bộ đảng viên miền Bắc đều chạy chọt để học tiếng Anh! Nhà trường lại có điều lệ là mỗi giáo viên được bảo lãnh một con em mình để theo học tiếng Anh. Tại sao cái "vinh dự" của một học sinh giỏi phải nhờ tới sự bảo lãnh của một giáo viên mới thoát được cái "vinh dự" đó" Nếu để tự do chọn lựa, thì chắc chắn không một người bạn nào của tôi ở miền Nam thích học tiếng Nga. Vậy Tự-do đối với tôi lúc ấy là sự bảo lãnh của một cô giáo.
Gia đình tôi vượt biên 19 lần thất bại. Năm 1979, mới sinh ra 9 tháng, tôi đã phải ở tù chung với cha mẹ tại Huyện Châu-Thành, tỉnh Bà-Rịa vì tội vượt biên. Sau khi có 2 đứa em nữa, cha mẹ cũng tiếp tục dắt dìu chúng tôi ra đi. Có lần bị bại lộ, chính tôi phải dắt 2 em chạy bộ mấy cây số trong rừng hoang giữa đêm khuya ghê rợn. Cuối cùng, ba tôi quyết định ra đi một mình. Tôi thương ba tôi. Tôi không muốn xa người, nhưng tôi cầu nguyện hằng đêm cho người ra đi trót lọt.
Ba tôi mới vắng nhà hôm trước, nửa đêm hôm sau, nhà tôi bị gõ cửa. Công an lao xao: "Yêu cầu chủ nhà mở cửa!" Nỗi sợ hãi làm tim tôi muốn rớt ra ngoài. Tôi muốn khóc mà không khóc được. Tôi ôm chặt 2 em nằm im thin thít. Má tôi lạng quạng, run rẩy mở đèn. Tra mãi mà cái chìa khóa cứ lộc cộc không lọt vào ổ được. Bên ngoài nhiều cái đèn pin pha vào cửa hối thúc. E rằng ba tôi đã bị bắt, nên công an mới đến xét nhà! Tôi rùng mình nghĩ đến những ngày lao lý của ba tôi mà thấy lòng đau như cắt.
Cửa mở. Công an xuất hiện, họ đọc một án lệnh: "Yêu cầu chủ hộ số 121 xuất trình hộ khẩu và tập trung tất cả người nhà..." Má tôi vin vào khung cửa run run: "Dạ... số nhà tôi là 021, trên lầu kia mới là 121..." Công-an đã nhầm số. Rồi những bước chân của họ rầm rập chạy lên cầu thang trên lầu chung cư. Má tôi đóng cửa lại, lặng lẽ đốt một cây nhang lên bàn thờ Phật, qùy xuống, nước mắt ràn rụa. Tôi cũng khóc vì sung sướng, vì không phải ba tôi đã bị bắt. Hạnh phúc và Tự-do đã đến với chúng tôi. Tự-do lúc ấy là sự nhầm lẫn địa chỉ của công an!
Cuối cùng, do sự bảo lãnh của ba tôi, chúng tôi được bước lên phi cơ rời Việt-Nam. Sau cái vẫy tay giã từ bạn hữu, tự nhiên nước mắt tôi trào ra. Tôi khóc thương cho người ở lại hay đó là giọt lệ tự do"
Ngày Thứ Ba, 27.8.1991, ba tôi đón chúng tôi tại phi trường Los Angeles. Tự do phải chăng là giọt nước mắt đoàn tụ của gia đình tôi sau 1.503 ngày xa cách" (Tính từ ngày ba tôi rời nhà: 16.7.1987)
Ba tôi gấp rút đưa chúng tôi đi khám bác sĩ, đi chích ngừa để kịp hoàn tất thủ tục nhập học. Có lẽ nước Mỹ không muốn một người mang bệnh truyền nhiễm vào lớp để lây lan cho người khác.
Đúng một tuần sau, ngày 3.9.1991, tôi vào học lớp 8 trường Warner trên đường Newland ở thành phố Westminster rất gần khu Phước Lộc Thọ của Little Saigon. Trên đường tới trường, ngang qua ngã tư Westminster và Newland, có người cầm bảng STOP ngăn xe, để tôi băng qua an toàn. Tất cả xe cộ đều phải dừng lại khi bảng STOP đưa lên. Xe nào không kịp dừng, sẽ bị phạt nặng, vì theo luật, tốc độ khu trường học thường không qúa 20 miles/ giờ. Hồi còn ở Việt-Nam, bộ hành tự mình phải lo thân, phải dành ưu tiên cho ô tô cán bộ, luôn luôn bóp còi inh ỏi, coi thường tánh mạng người đi bộ.
Ở Mỹ, học trò thuộc gia đình có lợi tức thấp được ăn sáng và trưa miễn phí tại trường. Ngay lớp 8, tôi cùng các bạn đã được hướng nghiệp sơ qua về y khoa, kinh tế, ngân hàng, khoa học, chính trị, giáo dục, phục vụ cộng đồng...Năm lớp 8, giờ workshop, huấn luyện viên hướng dẫn xử dụng cưa, bào để làm đồ gia dụng. Tôi đã chọn gỗ thật tốt để đóng một cái ghế dựa thật đẹp và sau khi chấm điểm, được đem về nhà làm kỷ niệm.
Tôi cám ơn cô giáo ESL (English as Second Language) ở lớp 8 trường Warner đã chuyển tôi lên lớp regular sau 3 tháng với những bài test khả năng anh ngữ của tôi. Tôi cám ơn những thầy cũ ở lớp ấy đã giúp đỡ tôi trong năm học đầu tiên ngỡ ngàng trên đất Mỹ. Tôi không hề cảm thấy bị kỳ thị hay phân biệt đối xử vì mái tóc đen hay màu da vàng. Nhờ những ân nhân ấy, nên năm lớp 9 ở Westminster high school, tôi được điểm A trong tất cả các môn học. Tôi cảm thấy cánh cửa cơ hội mở rộng khi được thầy cô "đuổi" lên lớp bằng những câu nói đầy khích lệ: "You don't belong in my class pumpkin, sorry! Get outta here!"
Tuy sung sướng khi được học những lớp advanced placement (AP) chung với bạn xuất sắc da trắng tóc vàng, nhưng tôi phải vất vả lắm. Nhiều đêm vì phải thức quá khuya để viết những bài bình luận văn học Mỹ nên tôi đã ngủ gục trong lớp. Khi chuông reo hết tiết, tôi giật mình sợ bị phạt hay xài xể, nhưng trái lại thầy cô lại biểu lộ sự thông cảm qua lời nói ân cần hay thái độ lo lắng đầy tình người.
Trung học Mỹ không phải chỉ dạy học trò theo sách vở lý thuyết hay giáo điều như vẹt, mà luôn tạo cơ hội cho học sinh tham gia thực sự vào thực hành. Vì có ý định theo ngành y, nên tôi gia nhập vào Heath Academy, ngay khi lên lớp 10. Tôi được huấn luyện nhiều giờ trong khi thực tập ở bệnh viện với nhiều loại bệnh nhân khác nhau. Tôi được vào phòng mổ tử thi để thí nghiệm. Trong áo choàng trắng, tôi cũng mang ống nghe trên cổ, đi vắt chân từ phòng bệnh này sang phòng bệnh khác để đo tim mạch, khám da, kiểm tra phân, nước tiểu, lấy máu, chích thuốc... để kịp ghi vào hồ sơ cho đúng lịch trình làm việc của bác sĩ. Lúc nào tôi cũng tâm niệm câu "Làm thầy thuốc lầm là giết một mạng người" . Nên lúc nào cũng phải hết sức cẩn thận.
Đủ giờ thực tập và lý thuyết xong phải trải qua 3 kỳ thi mới được cấp bằng nursing chính thức vào năm tôi 16 tuổi. Mùa Hè tôi thử nộp bằng để làm việc trong chương trình internship ở bệnh viện FHP. Lương thực tập chỉ có 5 đồng rưởi/1 giờ, nhưng tôi vẫn giữ bản sao cái check lãnh lương đầu tiên trên nước Mỹ.
Sau y khoa, tôi cũng thích computer science và Luật. Vào lớp computer, mỗi học sinh 1 máy, tha hồ mò mẫm. Tôi cũng gia nhập vào Mock Trial nghiên cứu về Hình luật cũng như những tố tụng dân sự. Nghiền ngẫm luật lệ, với những "cases law", những án lệ.. để xem các toà trước đã phán quyết ra sao. Cả nhóm phân công, nghiên cứu, bàn cải , viết những biện luận trạng hay cáo trạng, rồi học thuộc lòng.
Sau nhiều huấn luyện, thực tập, giáo sư giao phó cho chúng tôi những vụ án lắt léo, phức tạp. Chúng tôi chia vai. Học sinh không giỏi lắm thì đóng vai nhân chứng. Khá hơn một tí thì làm luật sư biện hộ hay công tố viên. Trước mỗi lần thi đua với các trường khác, chúng tôi phải tập họp ở toà án. Đến giờ đăng đường, tòa án cũng có cảnh sát và luôn luôn có một vị quan tòa thứ thiệt ngồi chấm điểm.
Trong những giây phút nhập vai làm luật sư biện hộ hay đóng vai công tố viên, chúng tôi quên mất mình chỉ là học sinh lớp 10, hay 11. Phe nào cũng uốn 3 tấc lưỡi đem hết tài hùng biện để mong làm trắng án một nghi can vô tội, hay làm cho một tên sát nhân trở thành "guilty". Chúng tôi rất thích thú khi khoác áo luật sư, hay đội lên đầu mái tóc vàng lăn quăn cùng với khước biện trên tay hay cáo trạng, hoặc phán quyết, chứa đựng toàn những terminology là từ ngữ nhà nghề. Mỗi lần thắng được đội trường khác, chúng tôi ôm nhau nhảy cà tưng cà tưng, mặc dù nhóm chúng tôi có Việt-Nam, Tàu, Nhật, Aán, Đại-Hàn, Phi, da đen, tóc vàng mắt xanh...
PHẠM THỊ TỪ ÁI
(*) Việt Báo ghi chú: Nguyên văn thơ Tố Hữu “Tiếng đầu lòng con gọi Si’t Ta Lin”.