Tác giả cho biết ông 58 tuổi, đã về hưu, hiện cư trú tại tiểu bang Minnesota, đã góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ. Trong số báo trước, tác giả đã “Viết Về Người Cha”. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Chiếc vận tải cơ C-130 nhà binh chở tôi từ phi trường Tân Sơn Nhất đến Clark Air-base-Phi Luật Tân (một căn cứ hải quân Hoa Kỳ) rồi từ đây đến đảo Wake, một hòn đảo nhỏ nằm giữa 2 đảo lớn Guam và Midway trên biển Thái Bình Dương. Những đảo này là căn cứ không quân chiến lược, làm tiền đồn canh giữ cho nền an ninh Hoa Kỳ.
Năm 1975, Chính phủ Mỹ dùng hai quần đảo Guam và Wake làm địa diểm để đón nhận người Việt tỵ nạn mở đầu cho chương trình di tản khi miền Nam rơi vào tay giặc.
Wake Island thật nhỏ, vỏn vẹn chỉ có 3 square miles (tương đương với 7.77 km2) là một hòn đảo lịch sử. (Năm 1941 bị máy bay Nhật tấn công chỉ cách một giờ sau khi oanh tạc hạm đội Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng). Những phi vụ chuyển tiếp người Việt về đây từ khắp nơi mỗi ngày một nhiều, sau khi đảo Guam không còn chỗ.
Tổ chức và điều hành do quân đội Hoa Kỳ đảm nhận; không giống như đảo Guam, người tỵ nạn tại Wake được ở nhà tiền chế -loại nhà xây cất cho gia đình binh sĩ- với đầy đủ tiện nghi. Họ chia người tỵ nạn ở từng khu riêng biệt theo thẻ màu sắc khác nhau:vàng, trắng, đỏ, xanh để dễ bề kiểm soát. Tôi ở khu vực thẻ màu vàng gần phi trường, rất thuận lợi đến khu vực Tiếp Nhận để tìm người thân mỗi lần máy bay chở người tỵ nạn đáp xuống.
Cũng như tôi, mỗi ngày cả ngàn đồng hương náo nức chờ đợi, ngóng trông gia đình bạn bè. Chỗ này vài ba người khóc sướt mướt khi không tìm được người thân; chỗ kia reo hò rối rít khi tìm được bà con thân thuộc. Tiếng cười lẫn tiếng khóc lẫn lộn của người Việt bất đắc dĩ bỏ nước ra đi. Nhìn nét mặt từng người, không ai dấu được nét lo âu buồn chán, không ai ngờ tình thế thay đổi quá đột ngột. Tâm trạng chung của mỗi người là mong sum họp với gia đình và bình an khi ra đi.
Trung tâm điều hành (Process Center) kêu gọi mọi người tình nguyện làm việc tùy theo khả năng mình để giúp đồng bào, đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt đòi hỏi trong khu vực. Tôi đến gặp nhân viên văn phòng để ghi danh vào ban Hồng Thập Tự để có cơ hội giúp đồng bào ta. Trưởng ban điều hành là bà Colleen, một người đàn bà Mỹ gốc Ba Lan tóc bạch kim; thông minh; vui vẻ và lịch thiệp; đặc biệt rất có cảm tình với người Việt tỵ nạn, sau khi cứu xét đơn và phỏng vấn tôi.
-Good morning Mr. Móc.
-Chào Cô Liên.
Vì có Thông dịch viên bên cạnh nên tôi trả lời bằng tiếng Việt. Tôi gọi đầm Colleen là Liên để dễ nhớ mỗi lần cần gặp. Bà gọi tôi là Móc dễ hơn gọi Mộc, một tên cúng cơm Ba Má đặt cho tôi từ lúc sinh ra tại Mộc Hóa.
Sau những thủ tục hành chánh và xã giao, đầm Colleen chấp thuận cho tôi làm việc với “đoàn quân Thập Tự Ịỏ”. Công việc đòi hỏi tinh thần tha nhân như an ủi nạn nhân, tìm kiếm người thất lạc, giúp đỡ thuốc men cho bệnh nhân v. v.
Tôi quen biết Toán trong nhóm 5 người bạn Hồng Thập Tự, một thanh niên nhiệt tình hăng say, tuổi ngoài 30, độc thân vui tính. Chúng tôi thường sát cánh nhau trong những công tác từ thiện, có dịp trao đổi tâm sự buồn vui vô tận, chia sẻ với nhau ly nước tách trà hay một vài cụm bia vụng trộm lúc nhàn rỗi. (Uống đi cho vơi sầu tỵ nạn-Thơ của Đoàn đức Hải). Qua những lời tâm sư tự nhiên, tôi được biết Toán có người bạn gái tên Phượng. “ÕPhương Gò Công. Ữ Toán thường nói như thế mỗi lần nhắc đến Phương.
-Thế bây giờ Phương ở đâu".
Câu hỏi vô tình làm cho Toán không được tự nhiên, chàng châm thuốc hút, thả khói bay cao rồi thong thả kể chuyện đời mình. Tôi chú ý từng lời nói và nghe Toán tâm tình:
-Tôi nghèo, nghèo lắm, Phượng con gái nhà giàu, Cha mẹ Phương có quyền thế, không muốn chúng tôi làm bạn với nhau. Nhà Phương cách nhà tôi một con đường Tôi yêu Phượng tha thiết, nàng cũng vậy. Rồi mối tình tốt đẹp đó chẳng được bao lâu thì Cha mẹ nàng biết. Nàng được gửi lên Saigon ở với người chú. Từ đó tôi mất liên lạc mà cũng chẳng có tiền để đi thăm, nghe đâu Phượng đã đi lấy chồng...
Tôi ngạc nhiên và đầu óc suy nghĩ vì câu chuyện người đàn bà tên Phượng rất trùng hợp với Phương nhà tôi; cũng gái Gò Công; cũng ở với ông chú, ông này với cha tôi là bạn cùng làm việc chung trong công sở. Tôi quen rồi lấy Phượng qua môi giới của ông chú này. Phượng có nhan sắc trung bình, tinh tình dễ thương. Tôi lấy Phượng chưa kịp làm đám cưới thì tình hình chiến sự đổi thay.
Thấy tôi thinh lặng suy tư khá lâu, Toán hỏi cho đỡ khoảng trống vô nghĩa giữa hai người:
-Thế chị nhà ở đâu và anh được mấy cháu"
-Chúng tôi đã thất lạc nhau khi Phượng về quê thăm gia đình, lúc Saigon đang hỗn loạn. Người bạn tôi cho biết thấy Phượng trên một hạm đội của Hoa Kỳ nào đó.
-Quê chị ấy ở đâu"
Toán hỏi như điều tra lý lịch, tôi giả vờ không nghe.
Biết tôi có vấn đề gì đó, Toán không hỏi nữa và thông cảm nỗi lo âu của bạn, kể từ giờ phút này Toán và tôi như bóng với hình trong công việc chung.
Mỗi buổi sáng sau khi ăn điểm tâm chúng tôi có mặt tại phòng Ịiều Hành để hỏi tin tức những phi vụ đi và đến Wake. Những chuyến máy bay chở người tỵ nạn lên xuống ồn ào, phi trường quân sự nhỏ bé này trở nên bận rộn, xé tan không khí trong lành của Wake lúc bình thường. Tôi hồi hộp và hy vọng Phượng cùng tôi sum họp trên hòn đảo Ẫnghỉ mát thần tiênỮnhưng đầy tình người hiếm hoi này.
Những sinh hoạt mỗi ngày mỗi khác thường, những chuyến viếng thăm của chính quyền Hoa Kỳ càng nhiều, cho nên đòi hỏi ai biết Anh văn tình nguyện làm thông ngôn. Toán rủ tôi ghi tên vào thông dịch viên, một công việc làm “thợ nói” để có dịp học hỏi và có cơ hội quen biết mọi người, tìm cách xuất trại sớm hơn. Tôi khước từ, viện cớ tiếng anh tiếng a bị giới hạn. hơn nữa tôi muốn lưu lại Wake một thời gian nữa để may ra gặp Phượng.
Toán làm thông dịch viên một tuần lễ thì có tên đi Fort Chaffee, bang Arkansas.
Sau ba tuần lễ thất vọng không biết tin Phượng, tôi được chuyển về Camp Pendleton, bang California, nơi đây là cửa ngõ cho đời sống mới của tỵ nạn, để nhờ các cơ quan thiện nguyện tìm bảo trợ xuất trại.
Tôi và Toán vẫn liên lạc với nhau thường xuyên, trao đổi những tin tức chương trình tỵ nạn và tìm kiếm Phượng. Tạm sống tại Camp Pendleton cũng như Fort Chaffee không giống ở Wake Island; những sinh hoạt tập thể thật bận rộn, những lều(tent) do Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ dựng, cung cấp cho hàng chục ngàn người sống chen chúc dưới ánh nắng gay gắt ban ngày và giá lạnh về đêm trong vùng đồi núi San Diego. Những người Mỹ vô ra trại muốn bảo trợ gia đình VN càng ngày càng đông. Đây là cơ hội thuận tiện làm quen với họ để bảo lãnh xuất trại sớm.
Không như Toán, tôi thuộc hạng người ù lì chậm chạp, khả năng hoạt động kém, ít giao thiệp cho nên khi xuất trại chỉ nhờ may rủi, mà điều đó thật đúng khi tôi được một gia đình bảo trợ đang cần một người đàn ông độc thân.
Người bảo trợ tôi là một nông gia, gia đình chỉ có 2 vợ chồng Bob và Mary, có nông trại rộng thẳng cánh cò bay thuộc bang Wisconsin. Công việc hằng ngày của tôi là cho chó mèo, gà vịt, dê, bò ăn, làm vệ sinh và vắt sữa bò; còn lại thời giờ là để Mary sai vặt; Bob thì lái máy cày từ sáng đến chiều.
Lúc đầu tôi cảm thấy vui với cảnh thiên nhiên, yên lặng và thanh bình nơi nông trại, mặc dầu lúc nào cũng ngửi mùi phân của súc vật và càng lâu cái mũi tôi trở nên quen thuộc với mùi hôi nồng nặc của phân gia súc. Ngược lai, tôi thấy chán chường nếu tình thế này kéo dài, chung quanh tôi không một bóng người VN, không liên lạc được với Toán, liên tưởng đến Phượng; giá mà có nàng bên cạnh thì sống nơi nông trại cũng là một thú vị. Vợ chồng Bob thấy tôi làm việc siêng năng thì dự tính “thăng chức” có nghĩa là Bob đang tập cho tôi biết cách xử dụng máy cày.
Tống Chí Linh