Tác giả là một mục sư mới từ Việt Nam sang thăm đất Mỹ, hiện ở Vancouver, tiểu bang Washington. Ngay những ngày đầu, ông góp bài “viết về nước Mỹ” và tự ví mình như nhân vật sách “Phi Lạc Sang Tàu” của nhà văn Hồ Hữu Tường. Trong một bài viết, Mục sư Sơn đã chia sẻ sự ưu tư của ông về “hồn Việt” với người Việt hải ngoại. Những ưu tư ấy tiếp tục theo đuổi ông trong bài viết “Phi Lạc sang Mỹ” thứ 4 sau đây.
Bạn thân mến,
Sáng nay tôi dậy sớm hơn thường lệ, vì hôm qua nghe tin thời tiết cho biết hôm nay có thể có tuyết. Lòng hơi nôn nao muốn tận mắt nhìn thấy, muốn tay mình cầm lấy những bông tuyết trắng, mà ở Việt nam mình tôi chỉ thấy qua hình ảnh, hoặc trên Truyền hình.
Có tuyết thật rồi ! Nhìn qua cửa kính tôi thấy những bụi cây phủ trắng tuyết. Tôi vội vàng mở cửa chạy đến nắm từng vốc tuyết trong tay, nó xôm xốp, nó lạnh buốt, tôi chợt nhận ra nó ở gần bên tôi tại Việt nam mình, nó ở trong tủ lạnh trên ngăn đá đấy bạn ạ. Rồi những bông tuyết giống như những tảng bông gòn nhè nhẹ rơi xuống, rơi xuống, nó vướng trên nón, vướng trên áo, có những bông tuyết bay phớt qua mặt như chọc ghẹo tôi rồi mới chịu rơi xuống. Tôi nhớ đến cảm giác của Nhà văn Nhất Linh khi ông nhìn những chiếc lá bàng rơi trong cái lạnh của Miền Bắc thời thập niên Ba Mươi của Thế kỷ Hai Mươi. Nhất Linh cảm nhận mỗi chiếc lá như có tâm hồn riêng, nên khi lá rụng xuống trong gió lạnh, mỗi chiếc lá có một cách riêng bày tỏ tâm hồn như lưu như luyến với cội nguồn gốc rễ. Ngày xưa khi đọc tác phẩm NHẶT LÁ BÀNG đó, tôi là người Miền Nam như bạn, không biết chiếc lá bàng ra sao, không cảm hết cái lạnh, nghèo của hai đứa bé chạy nhặt từng chiếc lá bàng để đem về đổi miếng ăn, nên tôi cũng không cảm được cái hay của tác phẩm. Bây giờ, nhớ lại trong lúc đồng cảnh - chỉ khác nhau là tuyết thay vì lá bàng, lòng cảm phục tâm hồn của một Nhà văn.
Tuyết rơi không nhiều lắm, chỉ độ mươi phút, càng lúc bông tuyết càng nhỏ hơn như luyến tiếc, sau đó thành những giọt mưa nhẹ lạnh buốt. Ngồi trong nhà nhìn những bông tuyết lưa thưa còn đọng lại trên nhưng bụi cây, ngọn cỏ, tôi chợt thấy một tạp chí đăng một bài dịch tác phẩm "Nhất cá nhân, đích Thánh kinh" của Nhà văn Trung quốc Cao Hành Kiện, với tựa đề "Thánh Kinh của Một Người". Chữ "Thánh Kinh" làm cho tôi tò mò để đọc. Đến cuối bài dịch kỳ Báo đó, có mấy câu tôi trích ra đây để bạn đọc mà hiểu tại sao tôi viết thư nầy cho bạn, 'Anh nói, với anh, giờ đây Trung quốc đã xa lắc xa lơ. Cô gái gật đầu. Anh nói anh không còn Tổ quốc, cô gái đáp lại, cha cô người Đức nhưng mẹ người Do thái và do đó cô cũng không có Tổ quốc. Tuy vậy không thể nào trốn chạy khỏi ký ức. Anh hỏi vì sao, cô gái trả lời, không giống như anh, cô là phụ nữ, anh chỉ đáp bằng tiếng "a" và chẳng nói gì thêm.'
"KHÔNG CÒN TỔ QUỐC!", người thanh niên nói như vậy, còn cô gái thì nói: "KHÔNG CÓ TỔ QUỐC". Con người mà sao không Tổ quốc" Tôi nghe buốt lòng. Tôi nghĩ ông Cao Hành Kiện hoặc người dịch là Thái Nguyễn Bạch Liên, chắc phải suy nghĩ nhiều lắm để chọn từ: KHÔNG TỔ QUỐC, thay vì Vô Tổ quốc.
Từ "VÔ TỔ QUỐC" nghe như một khẩu hiệu hô hào của một Triết lý chủ nghĩa, âm vang của nó nghe lạnh lùng làm sao ! Còn âm vang của từ "KHÔNG TỔ QUỐC" nghe sao như một tiếng than đứt ruột !
Tôi nhớ Dịch giả Hà Mai Anh đã dịch tác phẩm của Hecto Mallo, tựa đề là VÔ GIA ĐÌNH, sau nầy có người dịch lại với tên sách là KHÔNG GIA ĐÌNH, nghe dễ chịu hơn. Thật sự, như bạn đã đọc tác phẩm Không Gia Đình đó, cậu bé Lê Minh - tên nhân vật chính được Việt nam hóa, nào có muốn Vô Gia Đình đâu, mà cuộc đời đưa đẩy khiến em lưu lạc giữa dòng đời, chịu nhiều cay đắng, sống với một cụ già lúc nào cũng hô khẩu hiệu "TIẾN LÊN" và bầy chó với một con khỉ diễn tuồng kiếm sống. Cuối cùng rồi cậu bé ấy cũng tìm được gia đình. Con người không thể Vô Gia Đình, Vô Tổ quốc được; con người chỉ có thể Không Gia Đình, Không Tổ quốc, vì một lý do nào đó.
Tôi không có ý viết thư nầy cho bạn để bình luận các tác phẩm văn chương như của Nhà văn Nhất Linh, của Nhà văn đoạt giải Nobel văn chương Cao Hành Kiện, hoặc tác phẩm Vô hay Không Gia Đình, mà tôi muốn chia sẻ cho bạn những băn khoăn về ý niệm hay hình ảnh Tổ quốc Việt nam trong trí hoặc trong lòng người Việt mình nơi hải ngoại.
Mấy tháng đi dạo trên đất Mỹ, tôi thấy có một số người Việt mình giống như người Thanh niên trong tác phẩm của Nhà văn Cao Hành Kiện, KHÔNG CÒN TỔ QUỐC. Họ bị rượt đuổi, họ bị Tổ quốc từ chối, từ bỏ (tôi nghĩ rằng tôi dùng từ "Tổ quốc từ chối, từ bỏ" không đúng lắm, vì Tổ quốc là một ý niệm thiêng liêng trong một dân tộc, sự từ chối từ bỏ chỉ xảy ra khi Tổ quốc bị biến thành một Triết lý Chủ nghĩa). Tổ quốc của họ là nơi mỗi lần nghĩ đến là nghĩ đến hận thù, hoặc được nhắc đến như một thứ huy chương được đeo vào những ngày Lễ Hội cho mọi người nhìn mặt ngoài, chả ai dại gì đưa ra mặt trái tấm huy chương. Hoặc Tổ quốc của một số người Việt nơi đất Mỹ nầy đơn giản hơn, họ không quan tâm đến cái gì xảy ra trên đất Việt, họ chỉ biết là nơi đó có cha, có mẹ, hoặc một người thân nào đó cần mình hay mình cần họ về tài chánh. Hoặc Tổ quốc của người Việt mình trên đất Mỹ nầy là những Mùa Cứu Trợ, khi một Miền nào đó có hay không có thân nhân, đang bị lũ lụt.
Bạn biết không, tôi đã từng thấy một Đoàn Việt kiều từ đất Mỹ về Việt nam cứu trợ nạn bão số 5. Họ đi một đoàn người độ mươi người rồi kéo theo một số thân nhân trong xứ. Họ đi máy bay, họ bao xe đời mới, họ thuê ghe thuyền tiện nghi, mỗi người vừa đi vừa nói chuyện điện thoại di động với ai đó, chắc thân lắm nên chuông reo liên tục và miệng cười vui vẻ. Họ ghé vào những Nhà hàng đã được đặt trước. Họ đến cuối đất Việt để phát cho một số đồng bào những túi gạo, túi quà với gương mặt dường như đau buồn, chưa đầy một giờ đồng hồ, tất cả lại vội vàng lên đường trở về Thành phố tiện nghi, vì họ sợ muỗi cắn, sợ buổi tối không đèn, sợ cả những ly nước nấu chín. Họ chỉ uống được nước dừa tươi chặt sẵn, họ chỉ ăn được những hải sản tôm và cua, mà người địa phương ít khi nào dám thưởng thức.
Ms TRẦN THÁI SƠN
Tham khảo:
Hoa Kỳ
Tên gọi Hoa Kỳ trong tiếng Việt bắt nguồn từ chữ Hán "花旗", là một trong số nhiều tên gọi cổ hiện không còn được sử dụng trong tiếng Trung nữa của nước Mỹ. Tên gọi này ra đời vào năm 1784.[64] Trong năm này, con tàu có tên gọi là Hoàng hậu Trung Quốc (tiếng Anh: Empress of China) tới Quảng Châu. Con tàu này là thương thuyền Mỹ đầu tiên đến Trung Quốc. Trong cảm nhận của người dân Quảng Châu, những hình sao "☆" nằm ở góc trái lá cờ Mỹ giống như là hình bông hoa (khái niệm ☆ gọi là ngôi sao khi đó chưa có). Họ bèn gọi cờ Mỹ là "花旗" hoa kỳ (nghĩa mặt chữ là "cờ hoa"), gọi xứ có "cờ hoa" là "花旗國" Hoa Kỳ quốc ("nước cờ hoa"). Về sau, trong tiếng Hán, "花旗" Hoa Kỳ không cần phải có từ "國" quốc ở đằng sau cũng có thể dùng để chỉ nước Mỹ.[65] Vì Hoa Kỳ có nghĩa mặt chữ là "cờ hoa" nên đôi khi trong sách báo tiếng Việt nước Mỹ được gọi là xứ cờ hoa.[66][67].
Tại Trung Quốc, Hoa Kỳ chưa bao giờ là tên gọi quan phương của nước Mỹ. Tên gọi tiếng Việt Hợp chúng quốc Hoa Kỳ nếu dịch sát nghĩa từng từ một sang Trung văn thì sẽ là "花旗合眾國" Hoa Kỳ hợp chúng quốc. Trong tiếng Hán, nước Mỹ chưa từng được gọi như vậy.
Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa_K%E1%BB%B3#Hoa_K%E1%BB%B3