Tác giả Ông Văn Quyền cư trú và làm việc tại Westminster. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
*
Mùa Xuân năm 1975, ngày 30 tháng 4. Sau khi miền Nam nước Việt rơi vào tay Cộng Sản
Là một Đại úy/QLVNCH, ông T cũng cùng chung một số phận, như muôn vạn người Quân Nhân, Công Chức khác, trong QLVNCH, phải gánh chịu muôn ngàn đày đọa, đắng cay trong lao tù cộng sản, được vẻ vời dưới một ngôn từ hoa mỹ, có vẻ như vô cùng nhân từ bác ái, đó là những "trại tập trung cải tạo ", suốt từ Nam chí Bắc, trên đất nước Việt Nam.
Từ độ đó, gia đình trôi nổi ly tan, vợ ôngï phải dun rủi, đi tìm kiếm từng miếng ăn cho ngày hai buổi, với hai đứa con vừa chập chững biết đi, ( thậm chí vì quá túng quẫn, có nhiều người phải đi bán cả thân xác của họ ), để có được phương tiện mà nuôi con, thăm chồng.
Miền Nam Việt Nam rơi vào tay cộng sản, không phải chỉ có những người Quân Nhân, những người Công Chức làm việc trong chính quyền, hay giới báo chí, truyền thông, Tu sĩ bị bắt tù đày gian khổ, mà những người vợ tay yếu chân chân của họ, cũng đắng cay khổ sở không ít, họ phải đương đầu với cuộc sống thật khó khăn, trong một xã hội chủ nghĩa, được cầm đầu bởi một đảng cộng vô thần.
Con của họ thì được bọn cộng đảng phân chia, như là một thành phần thừa thãi của XHCN, con của ngụy thì học cao, thi không được đậu, con cháu bác đảng thì học dốt thi đậu cao, theo kế hoạch, " mười năm trồng cây, trăm năm trồng người " của bọn chúng.
Có lẻ cũng không phải cần nói nhiều về chuyện nầy, vì tất cả mọi người Việt Nam, ai cũng biết , vào năm 1976, sau một năm cưỡng chiếm miền Nam, bọn cộng sản bày ra cái gọi là bầu cử Quốc Hội, " Đại biểu đã được đảng tuyển chọn trước ", đọc qua tiểu sử thì nào là lớp 5 trường làng, nào là đại học biết đọc biết viết, chỉ có được cái giỏi là đảng viên lâu năm, trung thành với bác và đảng, thế là được cái ghế ngồi bù nhìn trong Quốc hội, để cho đảng chỉ huy.
Với những tháng năm dài khốn khổ, trải qua những đọa đày, từ trại tù nầy, qua trại tù khác, ông T được thả về dưới những hô hào, đó là sự khoan hồng của bác và đảng, cũng như phải hứa hẹn là, sẻ lo làm ăn, (nhưng làm thì có, ăn thì không), để trở thành người công dân tốt, trong một xã hội chủ nghĩa do đảng trị. Nhưng dù có tốt hay xấu, dù có thế nào, thì các ông cũng vẫn là những cây gay nhọn trong tầm mắt của những tên cộng sản khát máu vô nhân tính nầy.
Từ tháng tư đen năm 75, trong muôn ngàn áp bức, thù oán chất chồng, những người dân vô tội, phải gánh chịu những đau thương thống khổ, bịt bắt bớ, giam cầm một cách vô lý, cũng không được xét xử công minh.
Nhà cửa, ruộng vườn của dân, thì bọn đảng viên trung thành của bác giành nhau cướp lấy , rồi bắt dân đi khai phá núi rừng để sinh sống, trong cái gọi là kinh tế mới của nhà nước cộng sản đề ra. Đời sống của hàng triệu người điêu linh khốn khó, tinh thần thì không lúc nào yên ổn, bởi những hành động vô pháp luật của cán bộ trung thành của đảng, qua những cuộc thanh toán, giết người một cách dã man, mà người dân chỉ biết âm thầm chịu đựng.
Thế rồi, muôn vạn người bỏ nước ra đi, từ rừng thiêng nước độc, ra tận biển cả thâm sâu, nơi nào cũng có dấu chân người dân tị nạn, chỉ mong được thoát ra cái xã hội ngục tù đen tối của cộng sản, người người bỏ xác rừng sâu, xác người trôi trên sông biển, và những chiếc thuyền lớn nhỏ, trôi giạc giữa biển đông, những cảnh tượng tang thương, chết chóc, rồi đến bọn hải tặc chực chờ đây đó, trên vùng biển cả mênh mông, giết người, cướp của, hãm hiếp, mà những người tị nạn chỉ biết cam tâm hứng chịu, vì không có một sức mạnh nào để cản ngăn.
Trong cuộc vượt thoát của người tị nạn cộng sản Việt Nam, đã làm rúng động cả thế giới Tự Do, và họ đã mở rộng vòng tay thương yêu nhân loại, cho người tị nạn có nơi dung thân, tạo cho cơ hội đi học, đi làm, và hưởng được tất cả quyền tự do, như người dân bản xứ.
Duy chỉ có một Quốc Gia đón nhận người Việt Nam tị nạn nhiều nhất, đó là Hoa Kỳ.
Sau những tiếp nhận, cưu mang hàng triệu người Việt Nam tị nạm Cộng Sản, từ các trại tị nạn do Liên Hiệp Quốc điều hành, được đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ.
Sau những tháng ngày nối tiếp, chính phủ Hoa Kỳ công bố thêm một chính sách nhân đạo, hầu bảo lãnh tất cả những người Sĩ Quan/QLVNCH, những Công Chức từng làm việc trong chính quyền, cũng như những người có làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ, dưới thời Việt Nam Cộng Hòa, đã và đang tù tội trong tay cộng sản, được đến định cư trên đất nước Hoa Kỳ, được hưởng những trợ giúp như tất cả mọi người, chánh sách nhân đạo đó được mang tên là Humanitarian Operator, gọi tắc là HO.
Sau khi được công bố chính sách nhân đạo nêu trên, chính phủ Hoa Kỳ và bên phía chính quyền Cộng Sản Việt Nam, tiến hành nhận đơn, phỏng vấn và giải quyết, theo thứ tự hồ sơ được chấp nhận, những tù nhân cải tạo lần lượt được chính phủ Hoa Kỳ tiếp nhận và đưa sang Hoa kỳ sinh sống, theo từng đợt.
Ngày tháng cũng lần đến, gia đình ông T cũng được đến Hoa Kỳ trong đợt HO/07 vào giữa năm 1991, với đầy ấp những niềm tin và hy vọng, cho cuộc sống gia đình, trong một đất nước có đầy đủ những tự do của con người, và nhất là tương lai của hai đứa con gái thân thương, Gia đình gồm có ông, vợ ông và hai đứa con gái khoảng 14 và 16. Gia đình ông T có bà con ở thành phố Garden Grove, California bảo trợ, nên gia đình ông T được may mắn đến định cư tại thành phố nầy, một thành phố gần như có đông người Việt Nam tị nạn nhất trên đất Mỹ, (được mệnh danh là khu "Little Saigon").
Cũng như mọi người, gia đình ông T được hưởng những quyền lợi tị nạn như bao nhiêu người khác được có, và với một mức độ trợ cấp khiêm tốn cho một gia đình 4 người trong một xã hội mà thứ nào cũng phải chi, thì chắc chắn rằng không đủ vào đâu cho sinh hoạt hằng ngày, nhất là những thứ cần thiết phải tiêu dùng cho cuộc sống.
Hai đứa con gái của ông đã được vào trung học như những học sinh đồng tuổi khác, riêng ông phải đi cắt chỉ, đóng nút, ủi đồ và vợ ông phải đi may quần áo cho những shop may với đồng lương rẻ mạt, có lẻ đây cũng là những mánh khóe chung của những shop may, mà đa số chủ nhân là người Việt Nam.
Khi họ giao đồ cho những người thợ may, lấy tiền mặt, thì họ bóp chẹt một cách dã man, có khi làm khó dễ, nào là chê may xấu, không đúng qui định, nào là đường chỉ may thưa quá, khít quá ,..v.v…. Sau đó thì phải đem về tháo ra, sữa lại, phải mất thêm một lần công nữa.
Đồ may giao xong, có khi đến bốn hay năm tuần lễ sau, mới được thanh toán tiền bạc, rồi có khi người thợ may phải đi đòi tiền công ngày nầy qua ngày khác, thì mới được họ trả tiền công, cũng có khiï không được trả đồng nào, nhưng ai làm gì được họ, bởi vì làm lấy tiền mặt thì đành chịu, tất cả rồi cũng là sự nín nhịn, sự ngậm đắng nuốt cay với những ông bà chủ shop may đó, còn đi thưa thì làm sao thưa được.
Chán chường vời hoàn cảnh bốc lột và những khó khăn đó, ông T lần lựa tìm đến những hãng điện, nhưng không nơi nào ông làm được lâu, vì công việc họ thuê ông chỉ là tạm thời, thêm nữa là tuổi đời có cao, mắt mờ, tay chân chậm chạp, từ đó, ông cứ tìm hết nơi nầy đến chỗ khác, vì không có nơi nào ông làm được lâu.
Chương trình trợ cấp của gia đình ông đã bắt đầu cắt bớt, sinh hoạt của gia đình lại thêm thiếu hụt, lại thêm cha mẹ già đau yếu còn ở Việt Nam, cần được sự chu cấp của ông bao nhiêu lo lắng, buồn rầu, khiến cho ông T càng ngày càng trở nên gầy ốm, chẳng những thế tâm tính ông cũng trở nên bất thường. Ông hay cau có, giận dữ, mặc dù chỉ một câu chuyện nhỏ không đáng chi.
Có một ngày, ông lại hùng hổ, đánh đập vợ ông, cũng về vấn đề tiền bạc, trong nhà, mọi người xúm xích cản ngăn, nỗi bực bội trong ông như chưa vơi, trong cơn tức giận, ông bỏ đi suốt cả ngày, đến tối lại mới trở về nhà, làm cho vợ con ông lo lắng khôn cùng
Riêng vợ ông, thì vẫn luôn nhường nhịn chồng, luôn an ủi và xoa dịu những nóng bổng do ông tạo nên, để giữ vững những ấm êm hạnh phúc, nhất là tương lai của hai đứa con, một đời bà vẫn luôn là kẻ chịu đựng, và như đã cái tập quán xa xưa của người Việt Nam, như là " Chồng chúa vợ toi ", mà không một chút phiền hà,
Một hôm, vào ngày sinh nhật của đứa con gái nhỏ, tuổi vừa mười sáu, trong lúc bạn bè, bà con đang chung vui bên phòng khách, còn đứa con ông thì nói chuyện vui chơi vói bạn bè ngoài garage