Tác giả tên thật: Trương Văn Mạnh Hùng, vượt biên đến Mỹ 10/1989 định cư tại thành phố Blythevill, Arkansas. Nghề nghiệp: Thiết kế và vẽ kiểu cho tiệm vàng Mc Cauhey có vợ và hai con trai là Michael và Tommy, có một cơ sở làm ăn riêng tại thành phố Blytheville, Arkansas. Ông Hùng chính là người đã cùng các em là: Trương Văn Quốc Dũng, Trương Văn Phan Chiến, Trương Văn Bảo Thắng và Trương Thị Quỳnh Châu vượt biên được, nhờ người cha vay tiền ngân hàng gửi về cho các con đóng tầu. Câu chuyện này chính là phần tiếp nối bài Viết Về Nước Mỹ “Một bông hồng cho Blytheville” đã được đăng từ lâu.
Sau khi đã dẫn 4 đứa em -3 trai một gái- ra đi trên chiếc tàu mới đóng do đồng tiền của cha tôi từ Mỹ gởi về để vượt biên, tôi đến được đất Mỹ gặp lại người cha sau 10 năm 6 tháng 20 ngày.
Trên đường đi, chúng tôi vừa ra khỏi cảng Vũng Tàu thì bị tàu đánh cá quốc doanh bắt gặp, may mắn thay trên chuyến đi, tôi có cho một người bạn thân cùng vợ ra đi. Sau khi đã lục soát khắp nơi tìm vàng, ngoài chiếc nhẫn hai chỉ vàng và cái đồng hồ đeo tay để làm vật hộ thân, chúng kéo tàu chúng tôi trở lại Vũng Tàu. Trời đã về chiều, cơn nắng đầu mùa đã bắt đầu oi bức, lại càng bực bội thêm lên khi bị sui xẻo trên chuyến đi, mà anh em chúng tôi tưởng chừng chuyến này coi như toi tất cả.
Khi tàu vừa cặp bến, được báo cáo tên thủ trưởng chạy xuống, chúng tưởng như những chiếc tàu vượt biên khác do chủ tàu tổ chức thì sẽ tịch thu được một số vàng. Vừa mới đến cạnh chiếc tàu của tôi thì người bạn cùng đi với tôi reo lên:
"A! cậu Tư, cậu làm việc ở đây hả"" Cậu Tư cậu của người bạn tôi hỏi lại.
"Tụi bây đi đâu vậy""
"Chúng con đi vượt biên, người bạn tôi trả lời."
"Đi vượt biên thì để cho tụi nó đi, tụi bây bắt chúng nó về đây làm gì""
Tất cả những lo lắng buồn phiền đều đươc trút xuống khỏi vai chúng tôi. Thế rồi những người chủ tàu đánh cá quốc doanh đem trả lại cho chúng tôi những vật mà chúng mới tịch thu được, gồm có hai chỉ vàng và đồng hồ đeo tay, rồi chúng còn nói nhỏ:
"Ra hải ngoại nhớ gởi quà về cho tụi này nhé."
Mừng quá tôi nói: "Chúng tôi sẽ nhớ ơn và nhớ lời."
Rồi tàu chúng tôi trực chỉ hướng Nam Dương thẳng tiến. Sau 3 ngày 3 đêm lênh đênh trên biển, chúng tôi cặp được vào được một giàn khoang dầu của Mỹ, và từ đó tôi liên lạc được với cha tôi.
Ngược thời gian năm 1973, mẹ tôi ra đi không một lời từ tạ, bỏ lại cho cha tôi một đàn con 5 đứa mà tôi mới 8 tuổi còn em nhỏ tôi mới 9 tháng tròn, trong đời sống quân ngủ cha tôi một lúc phải làm hai công việc, vừa làm cha lo sinh kế cho gia đình vừa làm mẹ để dạy dỗ chúng tôi học hành.
30 tháng 4 đổ xuống cha dẫn chúng tôi về Đà Nẵng để nương nhờ bên nội. Với hai bàn tay trắng cha tôi phải làm việc cực nhọc ngày đêm mới có ăn lo cho chúng tôi học hành, tôi chỉ phụ cha tôi trong những ngày lễ hay cuối tuần mà thôi. 2 năm những tưởng cuộc sống của cha con tôi an bình, ai ngờ CSVN chỉ định đi vùng kinh tế mới ở Đắc Lắc, cha tôi chống đối rồi tù tội bị tra tấn dã man mà chính mắt tôi chứng kiến khi chúng trói cha tôi lại để đánh hội đồng. Sau những ngày tù tội chúng trả tự do, thì cha tôi trốn về Đà Nẵng trước sau đó anh em chúng tôi mới dắt nhau về sau. Về tới Huế thì bà nội tôi mất đã 50 ngày mà cô tôi đánh điện lên, nhưng chính quyền xã không trao cho cha tôi, thế là cha tôi trở thành người buôn bột ngọt từ Đông Hà, Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng.
Một hôm cha tôi đi vào Đà Nẵng mà không thấy trở về, chúng tôi nhận được một lá thư của cha tôi gởi về từ Đà nẵng trong thư đại ý cha tôi nói đã đem 4 người con của cô tôi vượt biên. Tôi bàng hoàng vô cùng, nhưng biết làm sao hơn. Khi còn trong quân ngũ cha tôi chưa bao giờ rời xa chúng tôi quá 3 ngày cho đến ngày mẹ tôi ra đi cũng vậy. Chúng tôi biết cha tôi thương chúng tôi vô cùng nhưng vì mới trốn về từ vùng kinh tế mới, sợ bị bắt lại, hơn nữa cha tôi có đi thì chúng tôi mới có tương lai sau này.
Khi cha tôi đi rồi chúng tôi phải sống với ông nội và cô. Mới 12-13 tuổi tôi đã thấy cha tôi rất cơ cực làm việc quá nặng nhọc mà chúng tôi chẳng biết làm sao mà phụ với cha. Ngày tháng dần trôi cô chú Minh cũng vượt biên mà không đem chúng tôi theo như lời cô đã hứa với Cha. Sống bên nội nhờ sự giáo dục của nội chúng tôi ý thức được việc làm của cha tôi lúc đó, chúng tôi mới an tâm lo học hành, ngoài giờ học chúng tôi thường phụ với nội trong công việc đồng áng để sinh sống.
Sau gần một năm chúng tôi vô cùng sung sướng khi nhận được thư của cha tôi gởi về cùng với mấy tấm ảnh, nhìn cha tôi khác và có vẻ mập mạp hơn khi ở vùng kinh tế mới nhiều, nhờ sức chịu đựng khi còn nhỏ cha tôi tập thể thao rất nhiều mới có sức chịu đựng như hôm nay, chúng tôi đem thư và ảnh cho nội, đọc cho nội nghe lá thư của cha tôi gởi về.
Năm 1981 cha tôi có làm bảo lãnh cho anh em chúng tôi, được chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận, nhưng phía CSVN thì không, vì chúng tôi trốn về vùng kinh tế mới nên không được nhập hộ khẩu. Chú ruột tôi ở vùng kinh tế mới Tây Ninh, thấy cô chú Minh ra đi nên trở về Huế và nói với nội tôi "Cha đã già sống rày mai chết, cha để con đem mấy đứa con của anh Hữu vào Saigon ở và làm giấy tờ cho chúng nó đi Mỹ, chứ ở Huế không thể đi được.” Nội tôi thì không muốn xa chúng tôi, vì không cha không mẹ nhưng vì tương lai của chúng tôi nên nội tôi bằng lòng.
Thế là chúng tôi trở lại sống ở vùng kinh tế mới Tây Ninh chứ không ở Saigon như chú tôi đã nói. Những ngày sống với chú thím ngoài vấn đề đánh đập, hành hạ chúng tôi, ban đêm chú bắt chúng tôi phải đi giăng câu làm cá, có đêm trời mưa gió lạnh rét căm căm mà chúng tôi vẫn không được ở nhà. Dũng đứa em kế tôi học hết lớp 9 nên phải ra ngoài Tây Ninh học lớp 10, một ngày em tôi trở về lấy giấy tờ gì đó nộp cho trường, tình cờ thấy được địa chỉ của cha tôi Dũng mới dấu đi đem ra Tây Ninh viết thư cho cha tôi hay sự việc.
Hùng Trương
cùng các em: Dũng, Tiến, Thắng, Châu.