Tôi vẫn sống, nhưng làm như cuộc đời không thể trôi thêm nữa. Tôi đã trôi xa lắm từ quê hương bên kia Thái Bình Dương tới đây. Tôi đã vùng vẫy bằng mọi cách để trôi xa thật xa quê hương, để tìm vợ con tôi mà ai cũng bảo rằng chắc chắn tất cả đã chết trong một cơn bão biển.
Tôi vẫn sống, nhưng tôi chỉ nhìn thấy dĩ vãng, thấy vợ tôi, người vợ lấy tôi năm mười tám tuổi, có với tôi ba trẻ thơ và đã cùng các con lìa xa tôi năm hai mươi tám tuổi. Nàng với tôi quen và yêu nhau trong hai năm, là vợ chồng hơn mười năm. Thế nhưng trong tuổi yêu đương thư từ cho nhau nhiều hơn những lần hò hẹn, vì tôi là khóa sinh của một quân trường. Qua bao nhiêu những thủ tục sưu tra của nhà binh chúng tôi đã thành hôn, nhưng… cưới nhau xong lại xa.
Năm năm đầu, chúng tôi có tất cả với nhau hơn mười hai tuần lễ cho những lần nghỉ phép và một lần… trốn về vì nhớ vợ con. Thời chiến tranh, mỗi lần chia tay là một lần lo xa vĩnh biệt. Nàng hai lần mang thai, tôi chưa bao giờ được ẵm con lúc chúng mới chào đời. Các con tôi chưa đứa nào được ba mua cho đồ chơi, áo mới, vì lương của tôi chỉ đủ nuôi tôi. Vợ tôi tá túc nhà cha mẹ, vừa đi làm vừa vất vả nuôi con, đôi khi còn dành dụm để cho chồng có thêm tiền cà phê, thuốc lá. Quà của tôi, chỉ là những cánh thư lưu chuyển qua nhiều khu bưu chính.
Hơn năm năm sau ngày Cộng sản thôn tính hết Việt Nam, tôi bị đi tù và nàng đang chờ ngày sanh con, đứa thứ ba.
Trong năm năm tù tội, chúng tôi có với nhau sáu tiếng đồng hồ cho hai lần gặp gỡ ngoài trời, một lần mưa và một lần hơi hơi nắng. Cũng may tôi… ở tù gần nên mỗi lần được thăm, nàng chỉ vất vả có… bốn giờ ngồi xe và ba giờ đi bộ mang tiếp tế cho chồng.
Sau năm năm tôi đước thả về, với nhiều thứ bệnh làm quà cho tình yêu của vợ, với nhiều khó khăn dồn dập mỗi ngày của địa phương để nàng và gia đình phải lo chống đỡ. Một đêm vui, đầm ấm nhất trong đời tôi là sau ngày tôi ở tù về, nàng bảo tôi làm… ngựa cho các con chơi, hai đứa con trai vui sướng lắm. Chỉ tội đứa con gái cưng bé nhỏ của tôi chưa biết ba bao giờ, không có cái hình nào chụp chung với tôi như các anh của nó, cháu tránh mặt tôi hoài không dám lại gần. Vợ tôi đặt nó lên lòng tôi làm nó khóc và bỏ ra ngoài buồng với ông bà ngoại. Hôm đó lời chân tình tôi nói nhỏ với vợ tôi là: Em có muốn ngồi lên lòng anh không"
Thế rồi trời thương, qua những mối làm ăn vất vả, lương thiện nhưng lén lút trong thời buổi nhiễu nhương, chúng tôi có đủ tiền lo cho vợ chồng và ba con theo một chuyến vượt biên, vượt chỗ chết để tìm ra lẽ sống. Lúc đó vợ chồng tôi không biết thế giới bên ngoài có gì ngoài tự do để ước mơ. Tôi chỉ mơ các con tôi được thảnh thơi đi học mỗi ngày, không phải bưng những chén cơm trộn bo bo, không phải lo những công tác thủy lợi ngu xuẩn hay những nghĩa vụ quốc tế hoang đường.
Vào một đêm giông bão thật khó ra khơi nhưng để vượt qua sự bủa vây, con thuyền vượt biên đã thoát đi, đã đem theo vợ con tôi, còn tôi thì kẹt lại. Ôi sự hên xui không thể nào mà lường trước được, kể ra chỉ thêm buồn. Từ đó tôi trốn chui trốn nhủi, sống bám và làm khổ bao người thân. Tôi tìm hiểu tin đồn về những con tầu vượt biên bị đánh chìm, tôi đi dò kiếm khắp những nông trường, những trại giam phụ nữ, nhưng không có tin tức vợ con.
Hai năm sau các người thân lại giúp tôi đi. Tôi đã đến Mỹ, nhưng chỉ còn trơ trụi một thân. Tôi chỉ thấy lại vợ con trong ác mộng với giông bão tưởng tượng, tôi thấy sấm nổ, chớp lóe, soi rõ nét kinh hoàng của vợ và các con tôi, ướt sũng, ôm lấy nhau trong chiếc thuyền gỗ nhỏ ngập nước, ngả nghiêng, chao đảo theo từng cơn sóng lớn. Lẫn trong tiếng gào khóc của chung quanh, có tiếng nàng kêu tôi, có tiếng các con cầu cứu bố. Đêm đêm, tôi nghe mãi những tiếng kêu đó.
Trên đất Mỹ, tôi đã học lấy một nghề, được trợ giúp của xã hội nơi đây để có một mảnh bằng đi kiếm việc, sống cho tôi thôi. Rồi một hôm, tôi lìa xa những người thân đã giúp tôi lúc bơ vơ. Họ đều tốt, nhưng gia đình ấm cúng của họ chỉ làm tôi thổn thức.
Mùa đông năm ấy sau hơn hai năm trên đất Mỹ, tôi đến một thành phố lạ với số tiền dành dụm không nhiều, với số vốn ngoại ngữ phải cần đến tay để phụ cho cái miệng đã từ lâu cũng không còn khả năng để lưu loát ngôn ngữ chính của mình.
Tôi đã không làm sao kiếm ra việc làm, tôi chưa có điều kiện để xin tiền thất nghiệp, tôi ngại ngùng đi tìm khai trợ cấp, tôi xấu hổ phải quay về với cuộc sống mà tôi không muốn phải so sánh.
Tôi đã vác ba lô đi khỏi nhà trọ trước khi người ta đuổi tôi ra vì tôi không còn tiền trả. Tôi muốn đêm Giáng Sinh năm đó lang thang trên khắp các đường phố phủ tuyết, uống cho thật say với một chai Whisky bọc dấu trong túi giấy như những chàng homeless ghiền rượu, tôi muốn uống cho đến khi gục xuống nơi nào đó, rồi… vợ con tôi sẽ dìu tôi đến một nơi… xa.
Thế rồi tôi đã gục xuống, đã nằm thiếp đi dưới một mái hiên, cho đến khi mấy người cảnh sát lay tôi dậy, kéo tôi vào trong mái che của một tiệm bán lẻ, và phủ lên tôi mấy tấm mền. Sau này tôi được biết mấy đêm đó trời lạnh lắm, những căn nhà của thành phố dành cho dân homeless trú thân không đủ chỗ, vài homeless đã chết vì cóng lạnh. Bởi khẩn cấp nên cảnh sát và những người làm việc thiện phải đem mền đi phủ đắp cho những người homeless đang ngủ trên hè phố… Có lẽ vì tôi đắp mền nên linh hồn của vợ tôi đã không tìm ra tôi để rủ tôi đi theo!
Sáng sớm hôm đó, người chủ tiệm đá tôi dậy trước khi mở cửa, tôi vội vàng xin lỗi, lôi đống mền ra ngồi ở mái hiên ngoài. Đấu óc tôi trống rỗng, tuyệt vọng quá vì cái chết không đến, biết làm gì cho những giờ kế tiếp đây, ruột gan tôi cồn cào đói, mùi rượu tanh hôi bốc lên từ bao tử thật khó chịu, nước mắt tôi trào ra và thầm kêu… Điệp ơi, tên vợ tôi.
Sau đêm Giáng Sinh đường phố vắng lắm, các cửa tiệm trên phố không ai mở cửa, bão tuyết lại đang rơi nên xe qua lại hầu như chưa có. Phải rồi, tôi sẽ bất ngờ lao ra một chiếc xe vô phước nào đó chạy ngang chỗ tôi ngồi. Nếu tôi chết và những sự linh thiêng là có, tôi sẽ phò hộ cho người không may đã cán chết tôi. Trước khi tính chuyện chết, tôi phải vứt hết giấy tờ của tôi vào thùng rác trước mặt. Tôi không muốn ai biết cái chết thê thảm này là một người Việt Nam chán đời, một người Việt homeless. Dù tôi có chết chăng nữa tôi cũng không muốn những người thân ở quê nhà, ở bên này biết kẻ chết là tôi để họ phải thương xót, để họ phải tủi nhục.
Tôi đã bỏ chiếc bóp vào thùng rác, sẵn sàng. Thế nhưng chết cũng khó. Tên chủ tiệm mà ban nãy đã đá tôi chạy ra, hắn hất tung nắp thùng rác, hắn nhặt chiếc bóp lên, hắn đến bên tôi và nắm cổ áo lôi tôi dậy, tay kia hắn mở chiếc bóp. Vẻ mặt bớt hung hăng khi thấy hình trên bằng lái xe trong chiếc bóp là của tôi, hắn hỏi:
- Vietnamese"
- …Yes!
- Homeless"
- No!!
Hắn chau mày tỏ ra không hiểu, hắn hỏi tại sao tôi lại dục bỏ hết giấy tờ của tôi vào thùng rác. Tôi không giải thích. Hắn hỏi tiếp tại sao lại ngủ ngoài đường tôi cũng lặng im. Lưỡng lự một chút, hắn nhặt mấy tấm mền lên vào bảo tôi:
- Come in!
Tôi không còn chủ động, xách ba lô lê chân vào tiệm theo hắn.
- Seat down!
Tôi ngồi xuống, hắn rót cho tôi một ly cà phê nóng không đường, tôi uống. Hắn đem đến cho tôi mấy chiếc bánh donut, và châm thêm cà phê. Cái đói đang làm chủ nơi tôi nên … nó bắt tôi ăn thật nhanh, dù biết cách ăn của mình ti tiện. Ăn xong tôi lí nhí lời cám ơn dù chính hắn là người đã khiến tôi chưa thể chết.
Hắn vừa làm công việc của hắn vừa nói không có chi, hắn bảo tôi trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, hắn đã qua tham chiến một lần. Hắn đoán là với tuổi của tôi, có thể tôi cũng đã ở trong quân đội miền Nam. Tôi trả lời phải, rồi tôi kể cho hắn nghe một cách đơn giản, thiếu hứng thú về tôi, về vợ con tôi, về nghề nghiệp mà tôi có thể làm. Tôi không nói tại sao tôi đến thành phố này và tại sao tôi lại nằm lăn lóc nơi cửa tiệm của hắn đêm qua. Hắn cũng không muốn hỏi tôi những điều đó. Hắn vẫn còn giữ bằng lái xe của tôi, và sau khi trả lại hắn bảo:
- Anh cần phải đổi lấy bằng lái xe của tiểu bang này. Tôi có thể giúp nếu anh muốn việc làm, tôi cũng cần một người giúp việc. Anh có muốn làm cho tôi không"
Tôi nói cách ngờ ngẩn:
- Tôi không có chỗ ở để có thể đi làm.
Hắn cười:
- À há, vậy anh là homeless rồi. Không trở ngại, làm cho tôi ban ngày, sau chín giờ tiệm đóng cửa anh có thể ngủ ở ngoài hiên, OK"
Tôi cười gượng. Tôi không quen ai ở thành phố này. Mấy tuần trước vì có tiền nên tôi ở Motel, trả tiền trước nên rất dễ, còn bây giờ với mức lương thấp nhất, muốn mướn một căn buồng nơi chung cư cũ kỹ cũng cần phải có người bảo trợ và trả tiền ứng trước cho nhiều thứ linh tinh. Làm như biết tôi nghĩ gì, hắn cười:
- Đùa đó thôi. Anh đã là một người trong quân đội, anh đã gặp nhiều khó khăn, tôi nghĩ là anh sẽ làm việc chăm chỉ. Việc này không có lương cao như công việc anh đã học, nhưng việc tạm mà. Ngoài cửa hàng bán thực phẩm nhỏ này tôi còn có một cư xá ở cách đây không xa, tôi cho anh ở trước, trả tiền thuê cho tôi khi anh có lương. Một phòng, ba trăm đô la một tháng. Tôi sẽ dẫn anh tới coi. Tôi sẽ trả lương anh với giá căn bản sau mỗi tuần làm việc, và anh làm cho tôi tám tiếng mỗi ngày. Khi nào tôi cần anh phụ thêm thì mình sẽ nói sau. Tôi sẽ giúp anh để xin trợ cấp y tế. Nếu anh bằng lòng thì tôi có đơn xin việc đây, điền vô và ký tên.
Hắn đưa tôi một mẫu đơn in sẵn và giải thích thêm:
- Đừng có lo, công việc bán hàng, nhận hàng thì dễ thôi, tôi sẽ chỉ cho anh, máy tính tiền thì học mau lắm. Ăn thêm cái gì đi, rồi phụ tôi lau chùi mấy tủ chứa đồ đông lạnh, tôi trả công cho anh, mình chỉ cần làm chừng hai tiếng thôi, ngày mai tiệm mới mở cửa.
Vậy là hắn đã cho tôi sự an ủi và tin cậy, hắn lôi cuốn tôi trở lại cuộc sống thật bất ngờ.
Hắn nói, hắn lấy làm lạ khi thấy một người Á Đông là homeless, hắn ghét mấy tên homeless thường khi ngủ trước tiệm và xả bẩy nếu hắn không cho chúng đồ ăn. Hắn đã ngạc nhiên, tôi bị đá mà không chửi, còn nói lời xin lỗi. Sở dĩ hắn thấy và chạy ra vì ngỡ là tôi đã giựt bóp của ai, lấy hết tiền rồi quăng vô thùng rác.
Sau đó tôi đã phụ với hắn lau chùi cửa tiệm, dù người đã mệt lả.
Hắn, Brandy Smith là quý nhân mà có thể vợ con tôi đã linh thiêng đưa tôi đến với hắn, gửi gấm tôi cho hắn.
Khi chúng tôi lau chùi cửa tiệm xong thì ngoài đường tuyết đã phủ dầy. Trên TV thông báo có nhiều nơi tuyết phủ cao hơn một feet và nhiều tai nạn xẩy ra. Hắn gọi phone về nhà nói chưa thể về vì bão tuyết, rồi quay qua tôi:
- Phải chờ người ta ủi sạch tuyết trên đường thì tôi mới có thể đưa anh về cư xá. Anh không phải là người Việt Nam đầu tiên tôi biết đâu. Ở cư xá của tôi có nhiều gia đình Việt Nam, không biết là tôi đã giúp họ hay họ giúp tôi vì cư xá của tôi đã cũ lắm, nhiều người Mỹ đã dọn ra từ lâu, chỉ còn người Việt Nam và Cam Bốt hoặc Lào mướn vì giá thấp.
Hắn giải thích là cho gia đình Á Đông mướn ít có sự sự phiền nhiễu và tiền nhà luôn trả đúng hạn kỳ. Họ ở đông hơn số người mà mỗi căn có thể cho phép, song hắn cũng thông cảm vì biết họ đang sống nhờ trợ cấp xã hội để đi học, tìm việc làm, hoặc cho qua tuổi già.
Hắn nói, cứ mỗi khi có một căn người thuê là Mỹ hay Mễ đi ra thì vài ngày sau lại có một gia đình Việt Nam tới mướn do những người đã ở trước giới thiệu đến. Đôi khi nếu hắn nhận một cái check trả tiền nhà đứng tên một người khác thì y như là gia đình cũ đã ra hồi nào mà hắn không hay. Họ không muốn bị tính tiền cho những sự hư hại, mà quên rằng sẽ bị phiền phức vì còn đứng tên thuê nhà nếu có sự gì bất thường về sau. Hắn không thích việc này vì không đúng với giao kèo, nhưng rất khó kiểm soát. Hắn chưa phân biệt và nhớ được người Á Đông ai là Việt, ai là Miên, Lào trong cư xá. Tuy nhiên chưa có vấn đề gì trở ngại nên hắn cũng lơ là. Hắn nói dân Việt Nam thích ở đây cũng có thể vì hắn dễ dãi hoặc đời hắn có cái gì đó liên hệ nhiều với Việt Nam.
Hắn mời bia nhưng tôi không uống, tôi vẫn còn cảm giác choáng váng bởi rượu và miệng lưỡi lạt lẽo. Hắn nói có thể hắn biết tâm trạng của tôi. Trong những mùa Giáng Sinh, có nhiều người vui thì cũng lắm kẻ buồn.
Hắn chật lưỡi, sau hai mươi năm chính phủ Mỹ vẫn tìm cách nói chuyện với kẻ thù để tìm xác các chiến binh của họ, nhưng vợ hắn thì đã bỏ hắn, trước khi hắn trở về từ Việt Nam. Tuy là khác nhưng hắn cũng đau khổ như tôi. Nếu thời thanh niên hắn không từng đạp xe với vài tín hữu đi gõ cửa mỗi nhà để truyền đạo và khuyên người ta hãy sống yêu đời thì hắn cũng đã muốn tìm cái chết. Bây giờ hắn sống với một bà girl friend đã trên 17 năm, chưa có gì trục trặc, thật là một điều khó hiểu. Coi nhau là bạn bè nên tôn trọng nhau hoặc ít kềm chế nhau chăng"
Hắn kể tiếp, tôi sẽ không phải là người đau khổ duy nhất sống trong cái ”cư xá buồn hiu” của hắn. Hắn cười và bảo tôi, cái tên đó không sai đâu, hắn sẽ dẫn tôi tới với mấy gia đình Việt Nam cho tôi làm quen. Những người già làm như mùa nào họ cũng lạnh, nếu không có con cháu ở nhà thì hắn không thể nào nói với họ điều gì, dù họ cười và gật đầu chào hắn rất vui vẻ, đôi khi họ còn bưng đến cho girl friend của hắn những món ăn lạ miệng. Vì hắn cũng ở một căn trong cư xá, và thường xuyên sửa chữa những hư hỏng khi có yêu cầu nên hắn biết hoàn cảnh của một số người, và mỗi lần gặp lại biết thêm một chút buồn.
Hắn kể một cách chậm rãi trong kinh nghiệm của một người Mỹ đã từng tiếp xúc nhiều với người ngoại quốc, nên tôi suy diễn thêm và hiểu ý hắntương đối dễ. Hắn nói là tôi sẽ gặp… Ba Ba Gia. Sau này tôi mới biết là bà Ba già.
Bà Ba Già đã ở đây trên bốn năm, trừ mùa đông lạnh, sáng nào bà cũng dậy sớm và bình thản quét sạch từ đầu này bãi đậu xe cho đến đầu kia bãi đậu xe của cư xá, để làm chi vậy ai mà biết, hắn cũng đâu có mướn bà ta làm việc đó. Bà còn có tật hay xúc rửa những bình sữa mà mấy đứa cháu của bà đã uống hết và xếp đầy ở hiên sau, lâu lâu hắn lại phải yêu cầu con trai bà đem đi bỏ, mặc cho bà nhìn hắn vừa cười vừa càm ràm gì đó. Nhưng hắn thấy bà không phải là người mất trí, bà hay trò truyện với chung quanh và thường luôn tay đan những chiếc áo len không biết để cho ai.
Quang Danh