Hôm nay,  

Hạnh Phúc Cuối Đường

21/11/202400:00:00(Xem: 2114)
Hạnh Phúc Cuối Đường 2
TG Vĩnh Chánh (thứ 2 từ phải) cùng những người bạn thân
 
Tác giả đã nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Năm 2019, tác giả nhận thêm giải quán quân Chung Kết Vinh Danh Tác Giả Tác Phẩm Viết Về Nước Mỹ hay còn gọi là giải Hoa Hậu. Tốt nghiệp Y Khoa Huế, thời chiến tranh bács ĩ Vĩnh Chánh đã là Y Sĩ Trưởng binh chủng Nhảy Dù. Bài viết sau đây ghi lại chuyện của những người bạn thân thiết trải dài từ “trại tù cải tạo” đến cuộc sống định cư trên đất Mỹ. Qua đó, chúng ta có thể bắt gặp đâu đó những cảnh đời đau khổ và hạnh phúc của chính mình.
 
***
 
Một ngày trong tháng 9, 2024, Kim Oanh điện thoại cho vợ chồng chúng tôi, ngỏ ý muốn qua thăm “anh chị”. Chúng tôi cho biết, nếu cần đưa đón, chúng tôi sẵn sàng. Nhưng Kim Oanh trả lời sẽ nhờ người quen đưa đến. Chúng tôi hẹn gặp nhau vào cuối tháng 10, 2024 tại nhà chúng tôi. Kim Oanh là vợ của Trung Úy Không Quân Hoàng Văn Tân, một người bạn tù cải tạo rất thân thiết của tôi trong 2 năm tại Long Khánh. Kim Oanh có lần dẫn vợ tôi cùng nhau thăm lén hai ông chồng trong rừng cao su bên ngoài trại tù ở Long Khánh. Đây là một kỷ niệm không bao giờ quên, vì cả hai cặp có được chút thì giờ “tâm sự” riêng với nhau giữa cảnh màn trời chiếu đất. Anh Hoàng Văn Tân mất vào đầu năm 2016 tại San Diego.
 
Trong cuộc đời, ta có những bạn theo từng giai đoạn. Từ các bạn thuở thiếu thời trong cùng xóm khắng khít với nhau qua năm tháng, đến những bạn học từ tiểu học, trung học rồi đại học, rồi các đồng đội trong thời quân ngũ, và các đồng nghiệp, thân hữu trong sinh hoạt đời thường về sau. Tuy nhiên có lẽ ta khó quên nhất là bạn tù cải tạo, tuy trước đó ta chẳng hề quen, nay lại cùng nhau chịu đựng những đọa đày và căm hờn đổ lên đầu, và chia sẻ những tủi nhục cay đắng và nỗi đau sự nhớ.
 
Trong suốt thời gian ở trại tù cải tạo L19 T9 ở trong một trại thiết giáp tại Xuân Lộc, tôi nằm giữa, bên phải là anh Hồ Xuân Tịnh, một Trung Úy Trợ Y Biệt Động Quân, quen biết trước vì là một đàn anh của tôi tại trường YK, động viên sau Tết Mậu Thân, và bên trái là anh Trung Úy Không Quân Hoàng Văn Tân từng du học tại Mỹ, gặp lần đầu. Trong hoàn cảnh ấy, ba chúng tôi trở nên những bạn tù thân thiết của kiếp chim lồng cá chậu biết thuở nào ra. Tâm tình, chia xẻ, nâng đỡ tinh thần, đùa giỡn, dặn dò nhắc nhở, che chở cho nhau…Tân và tôi đều đạo Công giáo. Tịnh không phải Công giáo dù vợ cũng Công giáo gốc. Tịnh có vợ và một con trước khi đi tù, Tân là dân Bắc di cư vào Rạch Giá năm 1954, sau gia đình di chuyển lên Saigon, đang học Khoa Hoc Saigon thì động viên, có vợ và ba con, còn tôi lấy vợ chỉ ba ngày sau mất nước. Trong ba đứa, Tân là người ít nói, đi đứng chậm rãi, dáng người hơi mập, có lẽ do thiếu hoạt động và xanh xao vì bệnh suyễn kinh niên. Anh lắng nghe nhiều hơn là nói, đặc biệt rất hiền và chân chất, không chưởi thề, không hút thuốc, biết nhường nhịn và đặc biệt rất ngoan đạo.
 
Vì hơn Tân một tuổi nên tôi được Tân kêu bằng huynh thay vì tên và xưng đệ với tôi, dù trước đây không hề quen biết nhau. Giờ đây, sát bên nhau trong nhà tù, kẻ trước người sau trong hàng điểm danh hay lao động, nằm cạnh nhau hằng đêm, ba chúng tôi, Tịnh, Tân và tôi như thể tay chân của nhau, tai mắt cho nhau, nuôi sống nhau bằng hy vọng và kinh cầu. Tịnh và Tân thường nâng đỡ tôi trong những khi tôi suy sụp, chán chường tuyệt vọng.
 
Qua bao nhiêu đêm, không những Tân đã lén lút giúp Tịnh và tôi ôn lại những đoạn kinh thánh quan trọng, bắt chúng tôi lập lại kinh cầu, mà còn luôn nhắc nhở hai đứa tôi đọc kinh hằng đêm trước khi ngủ. Đêm nào cũng như đêm nấy, không sót một đêm, vài phút sau khi đèn phòng tắt, Tân nghiêng người rót nhẹ vào tai tôi “Huynh, đọc kinh với đệ. Huynh, đọc kinh với đệ”.  Khi được Tân nhắc nhở, tôi lấy chân mình đá nhẹ mấy cái vào chân Tịnh, rồi cùng nhau lâm râm đọc kinh. Nhu cầu đời sống tâm linh khiến chúng tôi gắn bó thân thiết. Có những lúc tôi làm biếng vì quá mệt mỏi, tôi giả lờ hoặc cố tình không nghe. Tân lấy cùi tay thúc nhẹ vào hông tôi liên tục cho đến khi tôi phải chịu thua, đành cùng nhau đọc kinh cầu nguyện. Mỗi lần đọc kinh và cầu nguyện, tôi tìm thấy an ủi và lạc quan, lòng thư thả phó mặc; tinh thần vững mạnh hơn để chịu đựng thử thách; thể xác nhẹ hẳn vì có được niềm tin sẽ đến ngày tìm thấy ánh sáng cuối đường, dẫn đưa tôi vượt thoát nghịch cảnh, để cuối cùng cho tôi nguyên vẹn sum họp với gia đình. Tịnh và Tân cũng vững niềm tin như vậy.
 
Với kinh nghiệm của một người di cư, Tân luôn nhắc nhở tôi cần phải tuyệt đối thận trọng khi làm tờ khai sơ yếu lý lịch, càng đơn giản, càng ít chi tiết bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Và nhất là phải nhớ những điều mình đã khai, đã viết lên trang giấy, vì bút sa gà chết. Biết tôi dễ tin người, Tân thường xuyên căn dặn tôi phải dè dặt với mọi người, tránh to tiếng, tránh gây gỗ và nên hạn chế làm thân hay chuyện trò với các người bạn tù khác, nhất với những người mình không quen biết bao nhiêu hay những người ở trong các đơn vị trọng yếu như quân báo, thám báo, phượng hoàng, an ninh, cảnh sát, chiến tranh chính trị, xây dựng nông thôn…để tránh phiền hà hay bọn “antennes” theo dõi.
 
Quá nhiều lần tôi chứng kiến Tân lên cơn suyễn trong tuyệt vọng. Thật xấu hổ và đau đớn khi tôi chẳng thể giúp được bạn mình vì chẳng có thuốc men trong tay. Tôi xót xa nghe hơi thở Tân khò khè nặng nề với những tiếng rít nghẹt thở, người ngồi dựa vào tường, mắt mở lớn, miệng hả to hớp không khí, cánh mũi phập phồng, bẹ sườn giãn nở tối đa, thân thể ướt sũng mồ hôi dù giữa đêm mưa lạnh. Bệnh chẳng hề thuyên giảm và càng ngày càng trầm trọng với những cơn suyễn dồn dập kéo dài. Với sức khỏe kém dần, Tân thường xuyên được miễn lao động. Đau yếu lại chẳng biết ngày về, Tân càng hướng tâm linh vào cầu nguyện, và cầu nguyện nhiều hơn.
 
Trong ba chúng tôi, bạn Hồ Xuân Tịnh được thả cho về sớm nhất, trước cả đợt thăm nuôi đầu tiên. Tân và tôi tiếp tục ở tại chỗ trên cả năm, trước khi tôi bị chuyển trại vào ngay sau Tết năm 1977. Đêm chuyển trại, trời mưa và lạnh, Tân đang lên cơn suyễn nặng, ngồi yên trên giường thở nặng nề. Phút cuối khi chia tay, tôi đến gần Tân nắm tay bạn chào tạm biệt. Tân làm dấu cho tôi đến sát mặt mình, hổn hển thì thào “Huynh đi bình an, nhớ đọc kinh cầu nguyện. Nhớ cầu nguyện cho đệ”.
 
Và kể từ lúc ấy, tôi mất hẳn tin tức của Tân cho đến năm 2007, tôi vui mừng nhận tin từ một bạn KQ cho biết Tân hiện đang sinh sống tại Oklahoma City. Trong hân hoan và xúc động, tôi điện thoại ngay cho Tân. Sau khi nhắc lại tên mình, xưng huynh với Tân, kèm theo vài kỷ niệm khó quên giữa hai đứa trong tù, rồi lập lại câu “Huynh, đọc kinh với đệ”, tôi hơi khựng lại, có cảm giác Tân không nhận ra được huynh của Tân ngày xưa. Có một cái gì bất ổn! Tân đã thay đổi? Không nồng nhiệt như tôi ước mong qua cách trả lời ngắn, bâng quơ, không đầu không đuôi và không mạch lạc. Mãi đến khi biết tin Tân được nhận vào viện dưỡng lão El Dorado tại San Diego, đầu tháng 10, 2015, vợ chồng chúng tôi đến thăm ngay. Đó là lần đầu tiên chúng tôi gặp lại nhau tại Mỹ. Với Tân, nằm trên giường, không hay biết nhiều, và Kim Oanh, ở tạm trong nhà bà con gần đấy, ngày ngày vào săn sóc chồng.
 
Qua câu chuyện với Kim Oanh, tôi mới biết Tân bắt đầu có triệu chứng bệnh từ cả 16 năm trước, cho đến khi không tự mình săn sóc được. Tân đã mắc phải căn bệnh thần kinh từ năm 2001, bắt đầu với triệu chứng lãng trí, rồi cơ thể bại xuội từ từ. Đi đủ mọi trung tâm y tế chuyên khoa, qua đủ mọi thử nghiệm, bác sĩ cho biết hệ thống tuần hoàn trong não Tân quá kém, đưa đến tế bào não yếu rồi chết dần, không có thuốc gì hay thủ thuật gì cứu chữa được; chứng bệnh sẽ từ từ trở nặng theo thời gian. Bốn năm sau này, K. Oanh đã phải một mình săn sóc đặc biệt cho chồng 7/24, lo vệ sinh, tắm rửa, thay quần áo, đút mớm, xốc vác dìu đỡ chuyển qua xe lăn… toàn những công việc nặng nhọc.
 
Để nâng đỡ tinh thần Kim Oanh, vợ chồng chúng tôi quyết định đem theo cô con gái đầu lòng, bị tàn tật sau một tai nạn bất ngờ, như một chia xẻ và cảm thông sự khó nhọc và nỗi đau khổ của Kim Oanh đang gánh chịu. Điều này đã nhanh chóng giúp Kim Oanh và chúng tôi dễ cảm thấy gần gũi, thông cảm hoàn cảnh của nhau. Nếu thấy và hiểu được đời là bể khổ, mỗi người ai cũng có một thánh giá để vác, không cái nào nhẹ hơn cái nào thì chúng ta dễ dàng chấp nhận những sự bất như ý trong cuộc sống. Vấn đề là ráng vác làm sao cho khéo léo. Nhẹ nhàng thì tốt hơn, đỡ khổ hơn.
 
Tôi tự hỏi có phải những chịu đựng tinh thần, những hành hạ thể xác, những cơn suyễn nặng trong chốn tù, sự bất ngờ thành công vượt ngục trong sợ hãi khủng khiếp vào năm 1979, những thất bại và nguy hiểm liên tục trong nhiều  chuyến vượt biên, cái chết của người anh đầu trên biển, và sự hãi hùng ghê sợ ngoài sự chịu đựng của con người, tuy sống sót trong chuyến vượt biển (**trên cùng một con thuyền với nhà văn Nhật Tiến) nhưng phải chứng kiến cảnh hải tặc hành hạ, tàn nhẫn giết và làm nhục các phụ nữ trên đảo Ko Kra khi chuyến tầu vượt biên của Tân bị chúng đánh chìm - tất cả những sự kiện ấy đã không ít thì nhiều góp phần đưa đến hội chứng hậu chấn thương tâm lý và làm hư hỏng, xóa mòn não bộ của Tân!?
 
Một tuần trước Lễ Tạ Ơn 2015, chúng tôi đến thăm Tân lần thứ hai, lần này kéo theo vợ chồng bạn Hồ Xuân Tịnh. Dù đây là lần đầu tiên vợ chồng Tịnh gặp Kim Oanh, nhưng không vì thế mà ánh mắt không thân thiết, bàn tay không siết chặt nhau trong nỗi thông cảm sâu xa đầy thân ái. Như chuyền cho nhau sức sống và hy vọng. Để cũng cố đức tin trong hiệp thông cầu nguyện – vì từ năm 1980, trước khi vượt biên, bạn Tịnh đã tìm thấy ánh sánh Thiên Chúa để trở thành một tín đồ ngoan đạo. Chúng tôi cùng ngồi trong phòng, vừa quan sát Tân vừa lắng nghe những câu chuyện từ Kim Oanh cho đến khi Kim Oanh đút chồng ăn xong phần cơm trưa. Tịnh và tôi thay phiên nhau nói chuyện với Tân. Trông Tân có vẻ tỉnh hơn lần trước, dù với vài lời ư e vô nghĩa và ánh mắt xa xôi.
 
Kim Oanh thường xuyên gọi chúng tôi, cho biết tình trạng của Tân xấu dần. Vào ngày 28 tháng 2, 2016, Trung Úy Hoàng Văn Tân, cựu sĩ quan binh chủng Không Quân VNCH, người bạn tù và đệ của tôi, đã thanh thản ra đi, với sự hiện diện bên cạnh của người bạn đời thân thiết và con trai. Kim Oanh đưa xác chồng về chôn tại Oklahoma. Chúng tôi luôn nói lên sự ngưỡng mộ Kim Oanh về sự săn sóc chu đáo cho chồng mình liên tục trong suốt trên 15 năm. Chúng tôi cảm thấy yên tâm biết Kim Oanh sống trong tình yêu thương và bảo bọc của các con và cháu. Chúng tôi và Kim Oanh vẫn giữ liên lạc với nhau, gởi cho nhau những lời chúc trong những mùa lễ, hình ảnh tin tức về con cháu…
 
Đầu tháng 10, 2024, Kim Oanh điện thoại xác nhận ngày đến thăm chúng tôi, cùng lúc xin gặp mặt anh chị Hồ Xuân Tịnh trong ngày tiệc. Khoảng hai tuần trước khi đến Cali, Kim Oanh xin phép cho đem theo người bạn trai của mình, ý muốn chính thức giới thiệu với các anh chị bạn tù trước đây của chồng mình, là những người mà cá nhân Kim Oanh rất cảm kích. Chúng tôi nhìn thấy Kim Oanh thật tế nhị và cẩn thận, từng bước một tỏ bày câu chuyện lòng của mình. Kế đến, chúng tôi nhận được quà từ Kim Oanh gởi qua bưu điện, là những bao khô bò gởi tặng cho anh chị Tịnh, Maurice Emanuel, là tên người bạn trai của Kim Oanh và cho chúng tôi, mỗi cặp 2 gói. Thật là chu đáo khi Kim Oanh vừa cám ơn chúng tôi sẽ đón tiếp mình và bạn trai lại vừa tinh tế gián tiếp giới thiệu tên người bạn trai của mình.
 
Về phía chúng tôi, không chút mảy may thành kiến, chúng tôi không những chọn thái đội cởi mở, trìu mến dang tay đón nhận Kim Oanh cùng Maurice, mà chúng tôi thật tình mong muốn và ủng hộ Kim Oanh trong sự tìm lại tình yêu đôi lứa ở tuổi chín chắn. Biết Kim Oanh từng khổ sở nuôi chồng 4 năm trong tù cải tạo, móc nối tạo điều kiện cho chồng trốn trại tù, sắp xếp cho vợ chồng sống tạm ở vùng hẻo lánh xa kiểm soát của công an CS, rồi mưu toan lo cho chồng vượt biên cả mươi lần. Về sau, gia đình Tân và Kim Oanh đoàn tụ, định cư tại Kansas, quyết chí xây dựng tương lai gia đình, nhưng chỉ được khoảng 20 năm hạnh phúc thanh xuân bên chồng con, Kim Oanh lại một lần nữa quên mình, gác lại tất cả lạc thú trên đời, dồn mọi nỗ lực vào chuyện săn sóc cho Tân liên tục trong 15 năm tiếp theo, cho đến khi chồng mất.

Hạnh Phúc Cuối Đường
Maurice và Kim Oanh
 
Qua Kim Oanh, tôi biết thêm Maurice chưa bao giờ lập gia đình, bố mẹ không còn, chỉ có một người anh và một người chị cùng cha khác mẹ. Maurice giữ chức vụ giám đốc điều hành công nghệ thông tin và là nhân vật số 3 trong hãng Globe Life Insurance Conpany. Kim Oanh làm việc cho hãng này hơn 3 năm qua, và khác văn phòng với Maurice, ít khi có dịp gặp mặt nhau tại sở. Hai người bắt đầu quen nhau, rồi từ 2 năm nay, thường xuyên gặp nhau, tâm sự và tìm hiểu nhau mỗi cuối tuần. Tình yêu từ từ đến, và chính thức sau ngày 18 tháng 9, 2022 khi 2 người dẫn nhau đi chơi xa.  Các con của Kim Oanh đều biết câu chuyện này tỏ lời thông cảm cho mẹ, và quý trọng Maurice. Có điều Kim Oanh hơi tỏ ra quan tâm vì Maurice thích quan niệm Thiền với Tỉnh Thức, Ý Nguyện Hòa Bình và tinh thần Lắng Nghe của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, và đã từng tình nguyện giúp khá nhiều cho nhánh Thiền địa phương về in ấn, về công nghệ thông tin.
 
Buổi tiệc ngày thứ Sáu, 25 tháng 10, 2024 tại nhà xẩy ra trong khung cảnh thân thiết, ấm cúng nhưng đồng thời trang trọng và lịch sự. Maurice và tôi nói chuyện khá nhiều và cởi mở. Anh cho biết anh làm việc cho hãng này được 38 năm, và vẫn chưa tính chuyện về hưu – sự kiện này cho thấy anh là một con người trung thành với công ty mình. Tuy trụ sở Mẹ nằm ở Oklahoma City, nhưng hãng có mặt tại nhiều tiểu bang khác và các thành phố lớn như New York, Dallas… đang bành trướng tốt đẹp. Anh cho biết anh vẫn giữ đạo Anh Giáo (Presbyterian Church), và Thiền chỉ giúp thêm anh tĩnh tâm. Tôi sơ lược cho Maurice biết chuyện chiến tranh Việt Nam, sự xảo quyệt và tàn nhẫn của Cộng sản, cuộc sống của tù nhân sau chiến tranh, so sánh cho anh thấy sự khác biệt giữa chiến tranh Nam Bắc nước Mỹ chấm dứt trong danh dự cho cả 2 phe, với cuộc chiến tranh VN chấm dứt trong trả thù và phân biệt chia rẽ Nam Bắc cho dù thống nhất đất nước; rồi câu chuyện 3 bạn tù nằm sát bên nhau, che chở cho nhau và cầu nguyện với nhau, mà nay còn hai mống trước mắt anh… Tôi nhìn thấy ở anh sự cảm thông đối với nạn nhân cuộc chiến, mà Kim Oanh là một chứng nhân điển hình.
 
Tôi nhìn thấy Maurice có dáng người cao, khá đẹp trai, nhỏ nhẹ, thân thiện, chân thật, giản dị và dễ hòa đồng. Khi cháu Bồ Câu từ trường về nhà bằng xe bus, cả Kim Oanh và Maurice đồng đến gần, ôm chào hỏi cháu với nhiều thương mến, trao tặng thú nhồi bông và bánh kẹo cho cháu.  

Hạnh Phúc Cuối Đường 3
  
Trước khi chào nhau ra về, Maurice và tôi đứng chụp chung một tấm hình. Đó cũng là lúc tôi cám ơn Maurice đã làm cho Kim Oanh vui hẳn lên vì tôi nhìn thấy đôi mắt Kim Oanh sáng ngập hạnh phúc. Đồng thời tôi cũng chúc phúc cho đôi bạn chia sẻ phần đời còn lại với nhau. Và tôi cũng xin phép trước sẽ ghi lại câu chuyện tuyệt vời này, như một món quà cho cả hai.

Hạnh Phúc Cuối Đường 4
TG Vĩnh Chánh (bên trái) và Maurice

Cùng trong chiều hôm ấy, Maurice gởi riêng cho chúng tôi lời cám ơn rất chân thành và mong ước sẽ còn gặp nhau trong tương lai. Hai người tiếp tục thăm viếng miền Nam Cali, gởi cho chúng tôi nhiều tấm hình thật dễ thương, trông rất xứng đôi. Trong những tấm hình đó có quang cảnh của Thiền Viện Deer Park Monastery ở Escondido do cố Thiền Sư Nhất Hạnh sáng lập. Về lại Oklahoma, Kim Oanh chia sẻ thêm nhiều tâm sự, cùng hình ảnh của 2 người, lời viết tay của Maurice bày tỏ tình yêu và quý mến gởi cho Kim Oanh nhân dịp kỷ niệm ngày anniversary cuộc tình của nhau…Tuy nhiên, với tôi, có lẽ câu viết của Kim Oanh sau đây là quan trọng nhất: “Nếu anh Tân là người yêu đầu tiên của em qua sự giới thiệu và quen biết giữa hai gia đình, để từ đó em trở thành vợ anh Tân lúc em mới 17 tuổi, quá non nớt và bồng bột để tự hỏi đó là tình yêu?! Nhưng bây giờ qua bao thử thách, em thấy rõ tình yêu của Maurice dành cho em rất lớn và trân trọng. Nếu anh Chánh hỏi ý kiến em về đề tựa cho câu chuyện đời em, em bằng lòng với “Tình Yêu Cuối Đời”. Riêng với tôi, “Hạnh Phúc Cuối Đường” có lẽ thấm hơn và mênh mông hơn.
 
Bài này được viết trong mùa Lễ Tạ Ơn. Để cám ơn Trời, cám ơn Đời, cám ơn nước Mỹ luôn cho mọi người chân thiện có cơ hội tìm thấy hạnh phúc ở bất cứ tuổi nào.
 
Vĩnh Chánh
Tháng 11, 2024.
 
** Nhà văn Nhật Tiến là tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng trước 1975, như Thềm Hoang, Chim Hót Trong Lồng, Những Vì Sao Lạc…Cuối năm 1979 ông vượt biển và chuyến đi đã gặp hải tặc trong Vịnh Thái Lan. Ông và nhiều thuyền nhân bị hải tặc đem vào đảo Ko Kra giam nhiều tuần trước khi được nhân viên của Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc giải cứu. Ông là người đầu tiên chính thức viết những bản cáo trạng nhờ tổ chức Boat Peope S.O.S. phổ biến. Câu chuyện của ông đã gây dư luận xúc động khiến thế giới quan tâm nhiều hơn đến vấn đề thuyền nhân và nạn hải tặc. Tại Hải Ngoại, Ông có những sáng tác như: Tiếng Kèn, Mồ Hôi Của Đá, Một Thời Đã Qua… Nhà văn Nhật Tiến từ trần năm 2020 tại CA, không đầy một tháng sau khi người bạn đời của Ông ra đi về miền vĩnh hằng.
 
 

Ý kiến bạn đọc
25/11/202421:41:45
Khách
Cảm ơn Tác giả chia sẻ một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 412,381
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám và giải Danh Dự năm 2023. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây là bài viết mới nhất của tg, về việc ông bà trông giữ cháu ở Mỹ.
Tác giả bắt đầu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ tháng 11, 2018, với bài “Tình người hoa nở”. Cô tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali. Tác giả nhận giải vinh danh tác giả 2023. Bài viết này MTTN viết về giọt nước mắt người Mẹ, là tác giả Phương Hoa, một cây viết đoạt giải Chung Kết VVNM được yêu mến. VVNM và Việt Báo một lần nữa xin chia buồn cùng tác giả và tang quyến.
Người ta thường nói “Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn “hay “Hồn lỡ sa vào đôi mắt em” …mà nếu đôi mắt đó che bằng một cặp kính dày thì làm sao mà “thấy” được cái tâm hồn đầy thơ mộng và lãng mạn để…sa vào đôi mắt đây? …nên tôi nhất định không đeo kính cận khi đi học hay đi chơi để mong có cơ hội chớp được anh chàng nào đó lỡ dại sa vào đôi mắt mơ huyền của tôi. Tôi bắt đầu nhận ra mình bị cận thị khi học trung học vì không thấy rõ được chữ thầy cô viết trên bảng, ngay cả khi ngồi trên ghế bàn đầu trong lớp. Nhà nghèo, không có tiền đi bác sĩ để lấy toa và mua kính nên tôi thường mượn sách của bạn xem lại những thiếu sót. Và cứ như thế tôi học xong trung học, đỗ Tú tài và vào học đại học.
Một thời gian ngắn sau Hiệp Định Genève tháng 7, 1954, gia đình chúng tôi rời Phủ Cam dọn vào ở trong khuôn viên trường Đồng Khánh. Măng chúng tôi dạy môn Nữ Công Gia Chánh, và có lẽ vì là một quả phụ với 6 con, nên được Bà Hiệu Trưởng Nguyễn Đình Chi, ưu ái giúp đỡ cho gia đình được sống trong 2 căn phòng trên lầu Ba (bên phải, nếu từ cổng trước nhìn vào). Cùng ở trên lầu Ba sát cạnh gia đình chúng tôi là gia đình của bà quả phụ Trần Thi, mà chúng tôi thường kêu là Dì Hoàn vì Dì là bạn của Măng tôi từ khi 2 người học chung với nhau tại trường Đồng Khánh trong thập niên 30. Gia đình Dì cũng đông không kém gia đình tôi – 7 người. Dì ít cười và có vẻ nghiêm khắc. Các nữ sinh nghỉ trưa tại trường rất sợ gặp “Bà Thi”, dễ bị Bà la rầy hay cho “kỷ luật”, nhất khi bị bắt gặp đi lang thang trong hành lang thay vì phải ở trong phòng học.
Ở những thành phố tại miền Nam Cali mà tôi đã ở thì mỗi tuần một lần, xe đổ rác sẽ đến từng nhà để mang rác đi. Tại thành phố tôi đang cư ngụ, thứ tư hàng tuần là ngày đổ rác. Khoảng 7:30 sáng thì xe đổ rác xanh (cỏ, lá, vỏ trái cây) sẽ đến lấy rác đi. Khoảng giữa trưa thì đến lượt xe đổ rác tái sinh (recycle). Đến năm giờ chiều thì xe đổ rác đồ ăn và những thứ rác còn lại sẽ chạy chuyến chót. Tất cả mọi nhà trong xóm, trừ gia đình hai ông bà Mỹ già bên kia đường, đều kéo các thùng rác ra lề đường mỗi tối thứ ba để cho các xe rác đến đổ vào ngày hôm sau. Hai ông bà Mỹ già luôn đợi đến khoảng 7 giờ sáng thứ tư mới kéo thùng rác ra. Điều này làm tôi rất bực mình, nhất là vào các tháng mùa đông, vì tiếng động kéo thùng rác của hai ông bà đánh thức tôi dậy.
Đã bao giờ bạn cầu nguyện một điều gì chưa? Hầu như trong chúng ta, ai cũng đã từng chắp tay cầu nguyện một điều gì vì lòng trắc ẩn khi nhìn cảnh hoang tàn đổ nát ở dải Gaza, vạn gia đình bồng bế nhau chạy giặc, những nấm mộ ven đường gợi nhớ quê xưa. Bạn thầm cầu nguyện bình an cho những người khốn khổ được trở về nhà. Tôi nhìn những người lính trẻ dưới giao thông hào tuyết đá lầy lội của trận chiến đang cam go giữa Ukraine và Nga, tôi nhớ chiến tranh ở quê nhà nên thầm cầu nguyện ơn trên che chở cho những người lính vì họ còn quá trẻ. Bạn cầu nguyện cho những người không quen biết đang bị động đất ở đâu đó trên địa cầu được bình an trở về nhà. Tôi cầu nguyện cho cơn sóng thần khủng khiếp tiếp diễn đổ vào hoang đảo, đừng đổ vào những thành phố ven biển đông dân cư, nơi tôi chưa từng nghe hay biết đến địa danh đó trước khi xem tin tức trên tivi… Nhưng đã bao giờ tôi và bạn suy nghĩ về hành vi của mình với những người không quen biết, những nơi chưa từng nghe tên hay đến đó bao giờ.
Với tôi hình ảnh đẹp nhất thế giới không phải là hoa hậu hoàn-vũ đăng-quang, hoặc siêu mẫu chân dài, hoặc siêu cầu thủ túc-cầu, hoặc tân tổng-thống siêu cường, hoặc tân giáo-chủ nào đó; mà là đôi uyên-ương dắt tay nhau chậm rãi, rất chậm rãi đi bộ dọc phố Bolsa sầm-uất. Chàng đi khập khiểng, nàng dựa vai nghiêng. “Đây là vợ em mười mấy năm rồi,” Tâm giới thiệu Diệu khi họ bước vào văn phòng tôi. Có lẽ bạn đã nghe nhiều chuyện về con lai. Năm mươi năm từ 30/4 rồi còn gì. (Không cần phải thêm 1975 vì ai cũng tự hiểu. Có không hiểu thì chỉ là giả bộ.) Nhưng chuyện của Tâm, Việt lai Mỹ Đen, thì tàn nhẫn. Phải dùng chữ tàn nhẫn. Càng tàn nhẫn, càng đượm yêu thương khi tình yêu đến.
Những điểm tốt đẹp hấp dẫn của Little Sài Gòn, Nam California (mà người Việt hải ngoại mình hay gọi ngắn gọn là Khu Bolsa), đã được nhiều người nói đến. Nào là khí hậu ôn hoà, nhiều bờ biển nổi tiếng, nhiều phong cảnh đẹp xinh, cây trái hoa lá tốt tươi và nhất là “thiên đường ẩm thực” của người Việt khắp nơi đổ về thưởng thức. Tôi không phản đối điều này, mặc dù tôi đã bị vào vài ba quán không hề ngon tại Bolsa, khỏi cần kể tên ra đây làm gì (kẻo bị... guýnh sao, ngu gì!). Sự thực, kiểm lại những quán ăn Việt Nam ở nhiều thành phố tôi đã từng ghé qua, có nơi nhiều lần, từ Canada qua Mỹ thì thấy rằng, nơi nào cũng có thức ăn ngon. Nhưng ở Little SaiGon vì dân số đông, mức độ canh tranh nhiều, nên thức ăn đa dạng hơn, và có thể ngon hơn, còn ngon nhất hay nhì hay ba, thì tuỳ vào khẩu vị từng người, có phải ? Thôi thì “điểm cộng” người ta nói hết rồi, bữa nay tôi nói về những điểm “chưa tốt”, hay còn gọi là “điểm trừ”, nha!
Tác giả tên thật Trần Đình Phước, Sanh năm 1947, Cựu Trung Úy Không Quân VNCH. Đến Mỹ 10-1992. Danh sách HO-13. Tác giả nhận giải đặc biệt năm 2023 Hiện đang sống tại San Jose. (Ghi lại cuộc nói chuyện giữa một học sinh và một nhân viên Crossing Guard tại ngã tư Curtner Ave và Booksin, Ave, thuộc Thành Phố San José trong lúc em chờ phụ huynh đến đón.)
Cánh cửa ngăn cách giữa hải quan và người chờ thân nhân vừa mở ra tại phi trường Norman Y. Mineta San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ, mọi người đổ xô háo hức đứng lên, cặp mắt ai nấy mở thật to với những bó hoa, bong bóng đủ màu trên tay sẵn sàng chào đón người thân từ xa đến. Riêng tôi… cũng có hoa tươi, bong bóng hình gấu, hình trái tim… nhưng vai trò của tôi thật bất đắc dĩ. Tôi đi đón… vợ của người ta! Phải rồi, vợ của tên bạn thân, Chương lúc nào cũng bận rộn đi gặp khách hàng, không có thì giờ đi đón vợ trở về từ tiểu bang Pennsylvania sau bốn tháng đi tu nghiệp chuyên sâu về bác sĩ nhi đồng.
Nhạc sĩ Cung Tiến