Hôm nay,  

Tưởng Nhớ Giáo Sư Đào Quang Mỹ - Nhà Văn, Nhà Báo Hoài Mỹ

06/09/202400:00:00(Xem: 2049)
 
Hoài-Mỹ-1

Hình Giáo sư, Nhà văn Đào Quang Mỹ-Hoài Mỹ đứng ở giữa,
tay cầm Microphone.

 
Tác giả qua Mỹ trong một gia đình H.O. từ tháng Sáu năm 1994, vừa làm vừa học và tốt nghiệp kỹ sư điện tử. Là cư dân Garden Grove, California, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2018, ông đã nhận giải Đặc biệt về Huế Tết Mậu Thân và giải Đặc biệt năm 2023. Sau đây là bài viết mới nhất của tác giả nhằm tỏ lòng biết ơn và tưởng nhớ đối với Giáo sư, Nhà văn Đào Quang Mỹ-Hoài Mỹ.
 
*
 
Anh Đào Quang Mỹ là ân nhân và cũng là người bạn lớn của tôi, nên tôi muốn viết đôi dòng để tưởng niệm lễ giỗ lần thứ sáu của anh.
 
Anh Đào Quang Mỹ được Chúa gọi về lúc 1:05PM ngày 22 tháng 7 năm 2018, tại Orange County, California, USA. Hưởng thọ 76 tuổi. Thánh Lễ An Táng của anh lúc 6:30AM tại nhà thờ Chánh Toà Chúa Kitô Vua, ngày 28 tháng 7 năm 2018. Tuy bị căn bệnh ung thư hành hạ đau đớn, nhưng vẫn với nụ cười hồn hậu, nhẹ nhàng, anh rời bỏ đường trần để về cõi vĩnh hằng. Nguyện cầu Linh Hồn Antôn Đào Quang Mỹ sớm được về nước Chúa.
 
Anh Đào Quang Mỹ là nhà giáo, nhà văn và là nhà báo với bút danh Hoài Mỹ, khi viết các bài văn trào phúng anh ký bút hiệu Thạch Thủ. Anh là Chủ Nhiệm báo Bán Nguyệt San Ngàn Thông, ra đời vào thập niên 70 tại miền Nam Việt Nam, phục vụ độc giả thuộc lớp tuổi mới lớn, tuổi học trò. Nhóm chủ trương Bán Nguyệt San Ngàn Thông là các giáo sư trường trung học Nguyễn Bá Tòng, Sài Gòn, gồm những giáo sư, nhà văn, nhà thơ: Quyên Di-Bùi Văn Chúc, Hoài Mỹ-Đào Quang Mỹ, Đình Bảng-Lê Quang Bảng, Thái Bắc-Tăng Vĩnh Lộc, nhạc sĩ Hoàng Quý-Hoàng Kim Quý, nhạc sĩ Dương Đức Nghiêm, họa sĩ ViVi-Võ Hùng Kiệt. Bảo trợ tài chánh cho Bán Nguyệt San Ngàn Thông là giáo sư Đoàn Văn Thơm, trường Nguyễn Bá Tòng.
 
Bán Nguyệt San Ngàn Thông có lời giới thiệu:
 
“Tươi đẹp như cánh hoa mới nở.
Trong sáng như giọt sương mai.
Hướng thượng như ngọn thông cao vút.
Mơ mộng như dòng sông xanh.
Nồng nàn như nắng ấm.
Dịu dàng như ngọn gió đầu xuân”.
 
Trong cuộc đời tôi, tôi may mắn có nhiều ân nhân. Đa số các ân nhân đã giúp tôi về vật chất trong lúc hoạn nạn, khốn khó trên đường đời, nhưng cũng có những ân nhân đã ban cho tôi sự giúp đỡ về tinh thần rất quý giá. Đó là Nhà văn Hoài Mỹ, Thi sĩ Du Tử Lê, Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng...
 
Lần đầu tôi được gặp mặt anh Đào Quang Mỹ, nhà văn Hoài Mỹ, là trong buổi ra mắt sách đầu tiên của tôi, năm 2013. Tôi biết anh Đào Quang Mỹ qua sự giới thiệu của cậu tôi, một hội viên của Hội Cựu Tu Sinh Dòng Chúa Cứu Thế - Nam California.
 
Dù chưa một lần biết mặt vậy mà nhà văn Hoài Mỹ đã không ngại tốn thời gian đọc quyển sách của tôi, bỏ công sức để viết bài và làm diễn giả giới thiệu sách cho tôi. Đó là niềm vinh dự vô cùng lớn lao, là món quà quý giá hơn cả bạc vàng.
 
Tôi thật may mắn có diễm phúc là trong buổi ra mắt sách lần đầu của tôi, ngoài diễn giả của nhà xuất bản, còn có Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng, Tổng Thư Ký Hội Sử Học Việt Nam, Cựu Dân Biểu VNCH, Giáo sư Đào Quang Mỹ, nhà văn Hoài Mỹ và Thi Sĩ Du Tử Lê giới thiệu sách cho tôi. Tuy Thi Sĩ Du Tử Lê không đến được, nhưng đã gửi bài viết giới thiệu sách trong buổi ra mắt sách của tôi. Nhà thơ Du Tử Lê qua đời vào ngày 7 tháng 10 năm 2019 tại thành phố Garden Grove, California, USA. Nguyện cầu hương hồn Thi Sĩ Du Tử Lê sớm siêu sinh Tịnh Độ.
 
Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ biết làm thơ viết văn, không có kinh nghiệm trong việc viết lách và cũng không dám ước mơ trở thành một nhà văn, nhưng từ năm 2010 vì tâm thôi thúc nên tôi mạnh dạn và cố gắng viết với trình độ giới hạn của mình. Khi ra mắt cuốn sách, tôi không quen biết bất cứ một nhà văn hay nhà thơ nào để nhờ viết lời giới thiệu, làm diễn giả và nếu có, chắc cũng không một vị nào muốn có lời giới thiệu cho cuốn sách đầu tay của một tên tuổi không ai biết đến. Tôi định sẽ ra mắt sách mà không có diễn giả giới thiệu, nhưng rồi bằng một cách nào đó, bằng những mối liên hệ không ngờ tới mà buổi ra mắt sách của tôi có các nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, giáo sư - nhà sử học đã giới thiệu sách và có cả ban nhạc, các ca sĩ đến ủng hộ, giúp tôi một cách vô vị lợi, tất cả đều miễn phí cho tôi.
 
Tôi rất bỡ ngỡ vì tôi là một người không ai biết đến và mới tập tành trong việc viết lách vậy mà quý ân nhân, Nhà văn Hoài Mỹ, Thi sĩ Du Tử Lê và Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng đã ban cho tôi quá nhiều ưu ái. Công ơn của những ân nhân này đối với tôi là lớn lao vô cùng. Bổn phận của người mang ơn là phải tri ân và cảm tạ, thế nhưng chắc chắn rằng, tôi không thể nào đền đáp lại những ơn nghĩa này cho đầy đủ được.
 
Trong bài giới thiệu sách cho tôi, nhà văn Hoài Mỹ đã phân tích tỉ mỉ từ hình bìa cho đến từng câu chữ, từng nhân vật trong sách một cách sâu sắc, được khán giả vỗ tay nồng nhiệt. Để kết thúc bài giới thiệu sách cho tôi, Thi sĩ Du Tử Lê viết: “Vì thế, với tôi, Nguyễn Phước An đã thực sự là nhà văn, ngay tự những trang sách thứ nhất...”.  Giáo sư Nguyễn Lý Tưởng kết thúc bài phát biểu của mình tại buổi ra mắt sách: “Tôi cầu chúc anh Nguyễn Phước An, viết được một cuốn sách… trong tương lai sẽ viết được nhiều cuốn sách khác. Hãy can đảm nhận lãnh trách nhiệm làm nhà văn nói lên sự thật”. Những lời khích lệ và tình cảm đặc biệt của Nhà Văn Hoài Mỹ, Thi Sĩ Du Tử Lê và Giáo Sư Nguyễn Lý Tưởng dành cho tôi đã làm tôi thực sự xúc động. Thú thật hôm ra mắt sách đó, khi phát biểu và gửi lời cảm ơn đến mọi người, tôi đã khóc.
 
Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và với ít ỏi lần được gặp anh Đào Quang Mỹ, nhưng anh cũng đã đủ để lại cho tôi một cảm nhận, anh là người rất dễ gần gũi, thân thương và hay giúp đỡ mọi người. Có nhiều điều khiến tôi không dám ước mơ được làm bạn với anh Đào Quang Mỹ vì anh là một thần tượng của tôi khi mới lớn và về tuổi tác tôi chỉ đáng hàng con cháu của anh, nhưng với tấm lòng bao dung, không hề phân biệt, anh đã xem tôi như một người bạn. Trong các buổi tiệc với bằng hữu, anh luôn nở nụ cười tươi vui và thân mật gọi tôi là “người bạn trẻ”.
 
Anh đã tặng cho tôi nhiều tác phẩm của anh với lời ghi, “Thân tặng bạn văn Nguyễn Phước An với tất cả tâm tình quý mến”. Chỉ với một dòng ngắn ngủi ấy, anh đã khích lệ và làm lòng tôi ấm áp rất nhiều.
 
Hôm lễ giỗ năm thứ ba (2021) của Cựu Đệ Tử Antôn Đào Quang Mỹ - Nhà văn Hoài Mỹ, tôi hân hạnh được Hội Cựu Tu Sinh Dòng Chúa Cứu Thế - Nam California mời tham dự. Trong buổi lễ giỗ đó, tôi được nghe nhà văn Quyên Di và nhiều người trong Gia Đình Cựu Đệ Tử Dòng Chúa Cứu Thế - Nam California kể về anh, được thấy sự thương tiếc của mọi người đối với anh nhiều là dường nào, khiến tôi thật sự nuối tiếc là không được quen biết anh Đào Quang Mỹ sớm hơn, để tôi được học hỏi thêm các đức tính, những kiến thức sâu rộng và những điều tốt lành từ anh.
 
Theo lời Hội Trưởng Cựu Đệ Tử Dòng Chúa Cứu Thế - Nam California: “Chỉ có một Đào Quang Mỹ chứ không có Đào Quang Mỹ thứ hai. Nhờ khả năng Chúa ban cho là một nhà giáo, nhà văn và nhà báo đã làm cho Đào Quang Mỹ dễ tiếp cận trong mọi khía cạnh xã hội, là một nhịp cầu nối giữa các thế hệ.
 
Ngoài biết tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Anh, Đào Quang Mỹ còn dạy học cho giới trẻ Na Uy bằng song ngữ Việt - Na Uy. Anh là người lập nên chương trình dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam đầu tiên ở Na Uy.
 
Năm 2005, Đào Quang Mỹ qua Hoa Kỳ theo lời mời của một Hội cựu nữ sinh trung học, với tư cách là một người thầy cũ gặp lại học trò xưa. Bởi khí hậu tốt các mùa trong năm và những tình cảm đẹp đẽ của con người đã giữ chân Đào Quang Mỹ ở lại Cali và gắn bó với Hội Cựu Đệ Tử Dòng Chúa Cứu Thế Nam Cali cho đến lúc ra đi.
 
Điều đặc biệt của Đào Quang Mỹ là luôn sẵn sàng xắn tay áo lên tham gia vào mọi sinh hoạt cần thiết cho lợi ích chung. Thí dụ trong sinh hoạt của Hội Cựu Đệ Tử Dòng Chúa Cứu Thế Nam Cali, Đào Quang Mỹ đã bỏ công sức đi kêu mời những anh em lâu nay vắng bóng trong sinh hoạt, trở lại cùng Hội. Đào Quang Mỹ còn có câu nói vui vui với anh em trong hội là đi kêu gọi những con cóc con nhái ra ánh sáng”.
 
Vâng lời nhà Dòng, anh Đào Quang Mỹ cùng ông Nguyễn Hùng Cường đã bỏ ra nhiều tâm huyết thực hiện cuốn Kỷ Yếu Về Nguồn năm 2015 để lưu lại cho thế hệ trẻ Dòng Chúa Cứu Thế. Ông Nguyễn Hùng Cường làm Chủ Nhiệm và anh Đào Quang Mỹ là Tổng Thư Ký.
 
Cũng theo lời vị Hội Trưởng Cựu Đệ Tử Dòng Chúa Cứu Thế: “Đến giờ phút này trong tâm trí tôi, về khía cạnh gia đình, Đào Quang Mỹ là một người chồng lý tưởng, bởi tâm tính Đào Quang Mỹ rất vị tha. Ngay với bạn bè, có gì phật lòng nhau, Đào Quang Mỹ sẵn sàng nói ra chứ không để ở trong lòng và vui vẻ sẵn sàng tha thứ. Trong tình bạn, đặc biệt Đào Quang Mỹ chơi với bạn hết mình, không bao giờ vắng mặt trong các buổi sinh hoạt vui cũng như buồn của gia đình bạn bè. Một cách nào đó, sự hiện diện của Đào Quang Mỹ đã mang lại niềm vui, sự ấm áp cho các buổi họp mặt”.
 
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Hội Cựu Tu Sinh Dòng Chúa Cứu Thế - Nam California đã cho tôi được tham dự lễ giỗ của anh Đào Quang Mỹ, để tôi cũng có cơ hội nói lên lòng biết ơn của tôi đối với anh Đào Quang Mỹ.
 
Như trên tôi có nói, nhà văn Hoài Mỹ là thần tượng của tôi vì đã viết ra những vấn đề và tình yêu của tuổi mới lớn trước năm 1975. Tôi đã đọc được nhiều tác phẩm, những đứa con tinh thần của anh. Nhà văn Hoài Mỹ có nhiều tác phẩm có giá trị văn học, giáo dục được in trong Tủ Sách Tuổi Hoa và Tủ Sách Ngàn Thông như Đèn Khuya, Triền Dốc, Linh Hồn Tượng Đá, Dưới Mái Gia Đình, Trở Về Tâm Tư, Hành Tinh Mắt Ma…
 
Tuổi trẻ nhiệt thành, lý tưởng và bền bỉ cần cù viết để cống hiến cho văn chương, nhà văn Hoài Mỹ đã để lại những tác phẩm sống mãi với thời gian. Độc giả thanh thiếu niên Việt Nam trong những năm 70 chắc sẽ không quên nhà văn Hoài Mỹ với một tâm hồn trẻ trung, viết nhiều truyện loại hoa tím dành cho lứa tuổi 16-18. Những truyện tình yêu tuổi mới lớn của anh mang đến nhiều cảm xúc và làm nức lòng giới trẻ khi ấy. Nhà văn Hoài Mỹ còn viết truyện vui tình cảm gia đình thuộc loại Hoa Xanh như Dưới Mái Gia Đình, truyện phiêu lưu mạo hiểm như Hành Tinh Mắt Ma và rất nhiều ký sự vui nhộn dưới bút danh Thạch Thủ. Với lối viết hấp dẫn người đọc, các tình tiết sâu sắc, truyền tải các giá trị nhân văn, lòng nhân ái, vẻ đẹp tâm hồn, những tác phẩm của nhà văn Hoài Mỹ đã có sức ảnh hưởng rất lớn với thanh thiếu niên thời ấy.
 
Hồi nhỏ đi học, tôi thích đọc sách truyện, nhưng không có tiền để mua. Tháng nào tôi học giỏi thì được cha mẹ mua sách truyện tặng cho, nên tôi cố gắng học để tháng nào cũng được lãnh bằng khen. Lúc ấy nhà tôi ở gần phi trường Đà Nẵng, sợ bị đạn pháo kích của quân Cộng Sản bắn vào phi trường nhưng lạc vào nhà dân, cha tôi làm một căn hầm được phủ kín bằng những bao cát ngay trong nhà. Mỗi khi có còi hú báo động, mọi người trốn vào hầm để tránh đạn. Sau giờ học, tôi thường trốn vào căn hầm tránh đạn pháo kích đó để đọc sách truyện.
 
Bao ước mộng đẹp thời niên thiếu, tuổi học trò của tôi được dựng xây qua những truyện giải trí và giáo dục thuộc các loại sách Hoa Đỏ, Hoa Xanh và Hoa Tím với những hình bìa tuyệt đẹp của các hoạ sỹ nổi tiếng, nhất là Họa Sĩ Vi Vi. Hoa Đỏ gồm những truyện phiêu lưu, mạo hiểm, trinh thám, giúp rèn luyện trí óc, lòng can đảm và tinh thần hào hiệp. Hoa Xanh là các truyện về tình cảm gia đình, bạn bè, giáo dục về sự yêu thương, giúp tuổi trẻ sống hướng thiện. Hoa Tím là những truyện tình yêu tuổi mới lớn dành cho lứa tuổi từ 16 đến 18. Ngoài hai tủ sách truyện của Tuổi Hoa và Ngàn Thông, còn có Tủ sách Hoa Phượng, Mây Hồng, Tuổi Ngọc, Thằng Bờm, Thiếu Nhi… Và với một lực lượng đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà giáo, họa sĩ, nhạc sĩ tên tuổi đã tạo nên một khu vườn văn học, giáo dục đa dạng, đặc sắc cho các em nhi đồng và thanh thiếu niên của miền Nam Việt Nam trước năm 1975.
 
Trong thời buổi chiến tranh loạn lạc và vật chất thiếu thốn, các nhà văn, nhà báo, thi sĩ, nhà giáo phải cố gắng không ngừng nghỉ, nỗ lực vượt qua khó khăn và quyết tâm lắm mới sinh ra được những tác phẩm đầy tính giáo dục, kiến thức đa dạng và nhân văn như thế cho giới trẻ. Những nhà văn, nhà thơ, hoạ sĩ, viết và vẽ cho tuổi trẻ thời ấy đã trở thành những huyền thoại đối với nhiều thế hệ tuổi thơ của miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Những sách báo văn hoá trong sáng, lành mạnh và đầy kiến thức thời đó, phần nào đã hình thành nhân cách của thế hệ trẻ miền Nam trước năm 1975.
 
Đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn tìm tòi đọc lại những cuốn sách truyện xưa ấy vì tôi thương mến sách báo văn hóa của miền Nam trước năm 1975, chúng quen thân và là những kỷ niệm đẹp đẽ đã đi vào ký ức, đưa tôi sống lại khoảng thời gian tươi sáng nhất của một đời người.
 
Để kết thúc bài viết, tôi xin được ghi lại vài lời tóm tắt tự giới thiệu bản thân của Giáo Sư Đào Quang Mỹ - Nhà Văn Hoài Mỹ trong buổi ra mắt sách của tôi vào ngày 08 tháng 12 năm 2013:
 
- Nghiệp dĩ: Trước 1975 chuyên “gõ đầu trẻ” ở một số trường Trung Học tại Sài Gòn.
 
- Tháng 7 năm 1977: Cùng với vợ con, vượt biên và được tàu Na Uy vớt nên về vương quốc này định cư trong suốt 28 năm.
 
- Cũng bởi “nghiệp dĩ”, ở Na Uy lại tiếp tục “bán cháo phổi” 26 năm cho tới ngày chính thức về hưu.
 
- Theo “tiếng gọi con tim”, qua Mỹ, tính tới hôm nay còn thiếu 4 tháng nữa mới đủ “thâm niên” để thi quốc tịch.
 
- Viết lách: 1969-1972, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Tuần san Ngàn Thông, tờ báo dành cho Tuổi Mới Lớn.
 
- Đã xuất bản ở trong nước, trước 1975: Bảy truyện dài viết về Tuổi Mới Lớn. Ở ngoại quốc: Một tập truyện cổ tích Việt Nam viết bằng tiếng Na Uy và hai tập truyện ngắn (xuất bản ở Cali).
 
- Hiện viết thường xuyên cho Nhật báo Viễn Đông (Cali), Tuần báo Việt Tide (Cali) và Nguyệt san Diều Hâu (Florida).
 
Anh Đào Quang Mỹ - Nhà Văn Hoài Mỹ đã cho tôi thật nhiều và chẳng nhận điều gì từ tôi. Giờ đây để tỏ lòng biết ơn, tôi chỉ còn mỗi cách là luôn nhớ và cầu nguyện cho Linh hồn Antôn Đào Quang Mỹ sớm về hưởng vinh phúc muôn đời bên Thiên Chúa Ba Ngôi trên Thiên Quốc.
 
Xin cám ơn anh Đào Quang Mỹ - Hoài Mỹ. Anh vẫn mãi mãi trong tâm thức của tôi.
  
Phước An Thy
 

Ý kiến bạn đọc
07/10/202422:12:58
Khách
Cảm ơn tác giả một bài viết hay.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,856
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng....
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Nhạc sĩ Cung Tiến