Hôm nay,  

Những Ngày Cuối Năm... Nhớ Ngoại!

05/02/202413:10:00(Xem: 3160)
tuyet
Ảnh: Tác giả chụp.



Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ”. Tháng 12, 2021, tác giả nhận giải Việt Bút Trùng Quang VVNM 2021. 


*

Những hạt tuyết đầu mùa đã rơi cách đây vài hôm. Vừa đủ dày và phủ trắng cảnh vật để điểm thêm vẻ đẹp cho mùa đông. Lớp tuyết đó chưa kịp tan hết thì từ khuya qua lại có thêm một trận tuyết lớn khác. Sáng nay khi trời còn lờ mờ, tôi vén màn nhìn ra cửa sổ mà cứ ngỡ mình đang ở cõi tiên. Thời tiết thế này, cảnh đẹp thế này, phải cho mình 5 phút... Thế là tôi lại vào giường, trùm mền, nằm ngắm tuyết rơi 😊.  Nghĩ thầm, các em nhỏ hôm nay chắc sẽ được nghỉ ở nhà và sẽ thích lắm vì được chơi tuyết. Người lớn chắc phần nhiều cũng sẽ được làm việc tại nhà hoặc cũng được cho nghỉ.

Tôi thì vẫn làm việc tại nhà từ mấy năm nay và hôm nay có họp từ sáng sớm nên chưa bước chân ra ngoài. Ngồi làm việc trên lầu nên view không bị vướng nhà cửa. Thỉnh thoảng nhìn ra thấy các bông tuyết bay bổng trong không gian đẹp quá nên cứ chút chút lại len lén đến gần cửa sổ chụp vài pô hình 😊. Hình như tuyết đã lên 6-7 inches gì rồi.

Gần trưa thì tôi nghe nhiều tiếng động bên ngoài, nghe cả tiếng của chị hàng xóm Maha như kêu ai. Sau vài giây hơi xao lãng, tôi trở lại với công việc và không để ý tới những tiếng động đó nữa.

Đến giờ nghỉ trưa tôi xuống nhà và ra ngoài ngắm nhìn trời đất. Ngạc nhiên thay khi xung quanh trắng xóa nhưng driveway và xe mình lại sạch trơn tuyết...

Ôi, chắc lại là những hàng xóm dễ thương. Mới mấy tuần trước vừa kể chuyện Nicholas mang thùng rác vào giùm. Không biết hôm nay những ai đã cào tuyết vì lúc nãy nghe nhiều tiếng động và tiếng nói của nhiều người.

Phải công nhận có bộ chuông kèm video gắn ngay ở cửa cũng tiện cho nhiều thứ. Chắc chắn hôm nay nó đã giúp ghi lại nhiều hình ảnh dễ thương. Đúng vậy, hai bố con Samy và Nicholas cào sạch sẽ tuyết trên hai driveway dài thoòng và cào luôn cả tuyết trên xe của tôi... Mấy phút cuối, khi thấy cảnh Samy lui cui cào cả tuyết ở thềm, rồi các bước từ thềm đi ra xe tự nhiên làm bụng tôi cuồn cuộn và mắt nóng lên, ướt nhòa.

Samy, Maha, Nicholas... những người không máu mủ ruột thịt!

Trở về bàn làm việc, nhìn lên kệ sách ở phía trước, có hình ông ngoại ở trên, tôi lại thêm xúc động và nhớ ông khôn tả. Nhớ ông ngoại Cả Viên!

Nhớ những lời ông thường dạy ngày xưa: “…Phải sống sao mà ở cho người ta thương, đi cho người ta nhớ!”

Ngoại là người ảnh hưởng rất nhiều lên tính cách và cuộc sống của tôi. Ngày thơ ấu, những khi người lớn bận rộn và bỏ quên mình hơi lâu, ngoại cho mình ăn nước chắt ra từ cơm sôi sắp chín để thay sữa. Cậu út kể lại rằng, có giai đoạn mình bị ghẻ rất nhiều. Ngoại chăm sóc và tắm cho mình sạch sẽ. Và có lẽ tình yêu thương làm cho người ta nhớ dai hơn về những gì được nhận? Nhiều lúc, dường như tôi vẫn thấy lại cảnh khi mình còn bé tí và đứng trong chậu nhôm đạp đạp nước.

Mình chào đời chỉ vài tháng trước thời gian khó khăn 1975. Có lẽ trong người không được đủ chất, không đủ đề kháng nên con nít thời đó dễ bị ghẻ lở. Cũng vì đói nhiều hơn no nên người chưa kịp lớn thì đã qua tuổi, nên phần đông đứa nào cũng nhỏ xíu con.

Thế là cái con bé bé tí ngày xưa đó hôm nay, cũng chưa cao lớn thêm bao nhiêu, đang ngồi đây, trong không gian yên ắng, tinh khôi... nhớ về ông ngoại của nó. Nhớ lại những ngày tháng còn được ông cõng đi nhà thờ. Hết giờ lễ, trời mưa tầm tã, cúp điện, ông đội áo mưa đi ra nhà nội hỏi, “bọn chúng về chưa vậy hở thưa bà?”  Và ông lên nhà thờ, vai cõng hai chị em, tay bồng thêm út Hí, trùm áo mưa lên bốn ông cháu, mang đầy đủ ba đứa nhóc tì về đưa cho nội, rồi ông về nhà ông ở xóm trong.

Dường như suốt cuộc đời, ông ngoại chưa bao giờ làm buồn lòng ai. Ông luôn yêu thương mọi người và rất thích chia sẻ... ngay cả lúc ông chưa hẳn đã ít nghèo hơn ai.

Mình nhớ dì Trang may cho ông một bộ pijama mới, may trên số đo của ông.  Ngay hôm sau, dì tình cờ thấy ông Tín hàng xóm đứng chuyện trò với mấy người trong xóm, mặc bộ đồ pijama mới mà dì vừa mang về cho ngoại hôm trước. Dì ngờ ngợ về hỏi ngoại, “Ủa bố, sao con thấy chú Tín mặc bộ đồ y chang bộ con mới may cho bố vậy?”

“Ừa, bố đã tặng cho chú Tín vì chú vừa ở Kinh Tế Mới vô thăm gia đình anh An. Chú ấy chẳng có quần áo gì nhiều. Bộ đồ đó cũng hơi rộng cho bố!” – Dì Trang chỉ cười thôi vì biết bộ đồ không hề rộng vì nó đã được may trên số đo của ông. Dì đã để dành tiền nhiều tháng mới may được cho ông bộ đồ mới vì ông ngoại cũng chỉ có vài ba bộ đồ. Chắc dì không giận mà chỉ thấy yêu thương bố mình hơn!

Lúc bấy giờ, tôi chỉ là một nhóc tì bảy tám tuổi. Đã hơn 40 năm. Câu chuyện đó vẫn khắc rõ trong tâm.

Tới ngày hôm nay, tôi vẫn chơi thân với mấy đứa cháu nội của ông Tín. Bạn Phú là bạn học và bạn sinh hoạt nhà thờ của tôi. Bạn không may mắc phải căn bệnh teo các bắp thịt nên đã phải ngồi một chỗ từ lúc 13 tuổi. Mỗi lần về VN, dù bận bao nhiêu, khi xong việc và dù chỉ còn vài tiếng là phải ra phi trường, tôi vẫn không bao giờ thiếu chạy đến thăm bạn mình và ngồi hàn huyên với bạn một đổi.

Đến đó... mình như được trở về thời ấu thơ, thấy lại cảnh được quay quần bên các ông, các dì, các cậu… và mình cảm thấy ấm áp hạnh phúc.

Trước 75, ông ngoại là y tá ở Chẩn Y Viện Trung Ương. Ai trong xóm đau bệnh hay gặp điều chi nguy hiểm đều chạy đến kêu ông. Trong những giai đoạn khó khăn sau này, mình thấy ông cũng làm thợ hồ, mình thấy ông đi bốc giùm mộ, và có khi ông cũng giúp xóm làng thông các đường ống cống... Ông không bao giờ nề hà bất cứ công việc nào, dù khó khăn bao nhiêu. Khi đi nhà thờ, nhìn thấy những cuốn sách đáp ca bị đứt chỉ và sút gáy, ông lặng lẽ mang về nhà khâu và mang lên lại nhà thờ những cuốn sách lành lặn; hôm khác lại mang thêm vài cuốn về khâu tiếp. Sau này lớn tuổi, ông vẫn không bao giờ để phí thời gian. Ngoài những giờ đọc sách, làm vườn, ông thắt hàng trăm chiếc võng làm quà cho bạn bè, người thân. Ông thắt cả dây thừng để kéo chuông nhà nhờ...

Thấy ai cần giúp đỡ, ông luôn xắn tay áo lên, bắt tay vào việc, không chờ đợi phải có người nhờ.

Ông ngoại cũng là một người rất khôi hài, thích làm mọi người cười vui. Ông kể nhiều chuyện ngày xưa thời còn đi học, và khi làm việc trong nhà thương. Một trong những chuyện vui tôi vẫn còn nhớ rõ đó là chuyện hái trộm mít. Những người lính quân y bạn học của ông lên kế hoạch hái trộm mít bên dòng các sơ sát cạnh trường học. Một nhóm ở bên này hàng rào canh chừng các sơ và một nhóm leo sang bên kia rào để cắt mít. Khi đã cắt được mít rồi nhưng chưa kịp mang về thì các sơ phát hiện. Các sơ kêu nhau ra và đến vây quanh gốc cây.

Đồng đội phía dưới chạy về phía hàng rào, không kịp bưng mít đi. Một chú còn kẹt trên cây.  Các sơ càng ngày càng ra đông và cứ la ầm lên “ối có kẻ trộm mít!” khủng bố tinh thần đối phương.

Trước tình cảnh vô cùng gây cấn này, đồng đội bên kia hàng rào còn chưa nghĩ ra kế để giúp bạn thoát thân thì đã thấy bạn mình từ trên cây tuột nhanh xuống đất và tuột luôn cả quần… 😂

Các sơ thất kinh hồn vía, vừa bịt mắt, vừa chạy, vừa la lên “Ôi con quỷ con quỷ con quỷ…” vì thấy… Thế là người đồng đội anh hùng đó đã ôm được trái mít chạy về phía hàng rào với các bạn.

Tiếng cười giòn tan của ông cháu tôi vẫn văng vẳng như chỉ mới hôm qua…

Ông ngoại đã gieo rất nhiều những hạt mầm cảm thông, chia sẻ, yêu thương. Ông cũng gieo những hạt mầm siêng năng, cố gắng, chịu khó; không ỷ lại, không biếng nhát, dựa dẫm...

Trước khi rời Việt Nam, ông đã dặn dò mình rằng, “... Dù có đi đâu, dù ở vị trí nào, dù có làm được gì,... hãy vẫn luôn là Mimi giản dị, dễ thương của ông… Phải luôn sống sao mà ở cho người ta thương, đi cho người ta nhớ!” Và những lời dặn dò đó đã đi theo mình ba mươi năm qua, giúp mình thường xuyên chậm lại và nhìn lại bản thân.

Ngày xưa, mình đã rất nghèo, ông ngoại nhỉ. Nhưng hôm nay, cháu thấy mình đã giàu lên từ những vốn liếng ông cho ngày trước. Cháu sẽ luôn cố gắng gìn giữ những hạt giống đó luôn sống, sẽ luôn cố gắng làm cho mình giàu hơn, và lan tỏa sang các em, các cháu... để ông luôn vui về con cháu của mình, ông ngoại nhe!

Hôm nay, những cử chỉ đẹp của hàng xóm là dịp cho cháu nhớ lại lời dặn của ngoại và phải luôn cố gắng hơn, khiêm nhường hơn, góp những hạt mầm đẹp cho đời. Bởi những gì mình nhận được là do những gì mình đã mình nuôi dưỡng, gieo trồng.

Nhờ có trận tuyết to đùng, nhờ có những người hàng xóm tử tế, nhờ được làm cháu của ngoại Cả Viên... mà hôm nay các ngón tay của cháu lại được dịp làm thư ký cho trái tim 😊

Những ngày cuối năm, nhớ ngoại thật nhiều, nhớ sao là nhớ... ông ngoại quý yêu!

Và mong rằng, trong những năm tháng qua, cháu đã có được một số người thương, một số người nhớ... Không phụ lòng ông 🙏💝

Anne Khánh Vân

Tháng Chạp, năm Mẹo 2023

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 410,753
Trong xã hội, từ thuở dựng nước, tiền nhân đã đặt người làm thầy vào vị trí rất cao trọng, chỉ sau vua, trong thứ tự Quân Sư Phụ. Với tôi, người làm thầy mang một thiên chức cao cả, vì người làm thầy có thể giúp định hình tương lai cho nhiều thế hệ tiếp nối. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có thân mẫu là người cả đời chỉ biết đến phấn trắng, bảng đen, có thân phụ vừa là sĩ quan quân đội vừa là huấn luyện viên của Cục Chính Huấn, trực thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nên tình yêu dành cho việc giảng dạy đến với tôi thật tự nhiên, thật nhẹ nhàng....
Hồ sơ bảo lãnh cho gia đình tôi, chú Khải gửi về từ năm 1978, nhưng mãi đến cuối năm 1982, khi ba tôi được thả ra khỏi "trại cải tạo" Vĩnh Phú, thì má tôi mới xúc tiến việc nộp đơn xin xuất cảnh, diện đoàn tụ gia đình. Ở vào thời điểm đó, khi những chuyến bay chính thức rời Sài Gòn đi Mỹ, Pháp, hay Canada hãy còn lác đác như lá mùa thu, thiệt tình mà nói ai trong nhà tôi cũng đều không thấy nhen nhúm một tia hy vọng nào cả. Đi vượt biên tốn năm ba cây vàng cho một đầu người mà còn bị bắt lên bắt xuống, đằng này cả gia đình tôi lại trông mong vào tờ giấy bảo lãnh để được đi chính thức cả nhà, nghe qua như chuyện thần thoại nghìn một đêm lẻ!
Phải chăng khi ta viết về một người chết là ta giúp cho người chết không bị thời gian lãng quên?! Là cho phép người chết sống lại, cho dù trên trang giấy trừu tượng, để cảm nhận người chết đang hiện hữu với ta, gần gũi với ta trong thương nhớ mà đôi khi lúc còn sống ta lại phần nào hững hờ vì không gian và thời gian không cho phép. Tuy chết là hết, nhưng có những cái chết bi hùng, chết “đẹp” đáng ngưỡng mộ. Là những cái chết khác lạ trong đời thường. Như của Harakiri, coup de grâce/phát súng ân huệ ngoài chiến trường, tự vận của những tướng quân hay tự sát tập thể với trái lựu đạn nổ giữa niềm uất hận không muốn buông súng. Nhiều cái chết rất bình thường xẩy ra trong giấc ngủ hay đột ngột do tai nạn, và thường nhất là cái chết do các bệnh nan y, đến từ từ, với nỗi sợ hãi và đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần, cho người bệnh và thân nhân.
Những con vật được nuôi trong nhà, gọi chung là gia cầm thì con chó được loài người thuần hóa sớm nhất từ loài sói xám và được nhắc đến nhiều trong văn học từ cổ chí kim, từ đông sang tây với những từ ngữ ngọt ngào: trung thành, tình nghĩa, khôn ngoan, thân thiện... Nhưng không hiểu tại sao người Việt mình khi giận hờn nhau thường đem con chó ra chửi: “đồ chó,” “cái mặt chó,” “cái đồ chó đẻ!”. Lúc bực bội những chuyện ngoài đường, về nhà con chó chạy ra ngoắc đuôi mừng rỡ, ông chủ lại cho nó một đá cho hả giận… mặc dù nó chẳng có tội tình gì - nó cúp đuôi, tiu nghỉu chạy trốn - chẳng hiểu tại sao (?). Trong nhà vợ chồng cãi nhau, chó là con vật đầu tiên bị mang tai họa. Vì không biết làm sao cho bớt ấm ức, bèn đá con chó, chửi con mèo… Bởi thế, mới có thành ngữ “mắng chó chửi mèo” hay “chỉ chó mắng mèo” là vậy. Thật khốn khổ cho cuộc đời con chó!
Bạn bè rủ đi “Cruise” gần nửa tháng qua ba thành phố của tiểu bang Alaska và Canada. Tôi cảm thấy ông xã không được khỏe và bản thân mình cũng vậy, nên đang còn lưỡng lự. Nhưng L (ông xã) thúc giục tôi cố gắng chuyến này bởi khó có cơ hội đi cùng với bạn bè, còn ông thì không thích đi du lịch. Hèn gì mấy năm trước hai người đến bưu điện làm thẻ passport, ông nhất định không chịu làm nhưng lại thúc giục tôi tiến hành.
Hắn mỉm cười một mình. Hắn vừa nghĩ tới hai chữ “vu vơ” mà một tác giả dùng làm tựa đề cho loạt bài viết về văn chương trong một website văn học có uy tín. Lý do là vì hắn cũng đang vu vơ về việc viết văn. Bản thân hắn không quan trọng nên những gì thuộc về hắn cũng không quan trọng. Tất cả chỉ là...vu vơ.
Lần đó gia đình chúng tôi bay qua Texas để dự lễ ra trường High School của Kevin, thằng cháu, con trai út của ông anh Tư. Đại gia đình đi thành một phái đoàn, kéo đến hội trường của trường học, nhìn đám trẻ tưng bừng nhốn nháo, hớn hở vui cười, gọi tên nhau í ới, lòng tôi cũng vui theo. Chương trình bắt đầu, cả hội trường im phăng phắc, sau các thủ tục ban đầu, các bài phát biểu của các thầy cô giáo, hiệu trưởng, là phần phát biểu cảm tưởng của người thủ khoa, valedictorian. Đó là một cậu bé Mỹ da trắng, cao ráo, khuôn mặt sáng sủa, có nụ cười thật dễ mến...
Hồi mới qua Mỹ, tiếng Mỹ dở ẹt mà Bách cũng lấy được bằng lái xe hơi trong vòng ba tuần từ ngày đặt chân xứ này. Tuần đầu lo thủ tục giấy tờ thẻ an sinh, thẻ căn cước. Tuần thứ hai đậu viết, tuần thứ ba đậu lái. Nhanh thần tốc. Thế mà sau 30 năm ở Mỹ, hắn phải thi viết hai lần, thi lái bốn lần mới đậu bằng lái xe mô-tô 1.000 phân khối Harley-Davidson. “Anh mướn cái mô-tô nhỏ 300 cc thôi cho dễ thi. Có $20 một ngày à,” người giám thị DMV vừa khuyên vừa an ủi hắn. “Hoặc anh vào trường học có $400 đô một khoá ba tuần rồi thi ở đó luôn cho dễ.” “Thank you chị nhưng đậu bằng xe nhỏ rồi chạy xe lớn chỉ có chết sớm. Tôi sẽ thi lại cho đến khi đậu.”...
Ông bà có cả thảy 9 người con. Không may, anh Tư và anh Tám mất sớm. Chị Bảy lúc nhỏ, hay bị giật kinh phong. Càng ngày, biến chứng càng trầm trọng, trở thành thần kinh, phải cho vào bệnh viện tâm thần. Cũng may, những người con còn lại đều thành đạt, nên ông bà cũng được an ủi, và đỡ cảm thấy bứt rứt khi nghe miệng đời dèm pha: “Nhà đó chắc thất đức lắm, nên con cái mới bị vậy.”
Tôi chẳng rõ hình ảnh chiếc Xích Lô len vào tâm trí tự hồi nào; lại khiến lòng tôi xao xuyến trong lần đầu nhìn loại xe đạp ba bánh này trưng bày bên ngoài một cửa hàng chuyên bán nước mía, trong khu thương mại khá sầm uất tại Little Saigon quận Cam, sau bao năm sống xa đất nước. Sau này tôi thấy ở nhiều nơi khác nữa, như ở khu mua sắm Hong Kong, trên đường Bellaire, tên Việt là đại lộ Saigon bên Houston Texas. Nơi đây có tới hai chiếc Xích Lô đặt trang trọng trước một siêu thị thật lớn, người đi qua đi lại thường dừng bước nhìn ngắm, hay chụp vài tấm ảnh. Rồi còn bao nhiêu chiếc Xích Lô sáng loáng, nhỏ nhắn xinh xinh được trưng bày ngày một nhiều thêm nơi phòng khách trong các ngôi nhà bạn hữu tôi từng có dịp ghé thăm. Tôi cảm thấy Xích Lô giống một thứ gì thân thương của người Việt Nam như lũy tre làng, con trâu, luống cày, chiếc xuồng ba lá,…
Nhạc sĩ Cung Tiến