Hôm nay,  

Lời Tạ Ơn Thay Cho Một Người

26/02/202000:00:00(Xem: 9551)
Kim Loan

Tác giả  tên thật Nguyễn Thị Kim Loan, sinh năm 1966. Trước khi đi vượt biên, là cô giáo tiểu học tại Việt Nam, qua trại tỵ nạn Thailand 4 năm và qua định cư tại Edmonton, Canada từ 1994 đến nay. Đây là bài mới nhất của tác giả. 

****


VVNM
Tác giả và anh Hai


Gia đình tôi có tám anh chị em, anh Hai tôi là con trai lớn, sau bà chị Cả. Trước năm 1975, ba tôi làm Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà, má tôi mở quán cà phê giải khát tại nhà, đối diện khu Lục Quân Công Xưởng ở Hạnh Thông Tây, Gò Vấp. 

Anh Hai, là con trai trưởng, đã sớm ý thức việc học hành để làm gương cho lũ em nhỏ, hầu sau này tiến thân, không phải vất vả. Anh học rất giỏi, vì yêu thích Y Khoa, anh vào học Khoa Học Sài Gòn. Nhưng vì Mùa Hè Đỏ Lửa tổng động viên năm 1972 anh phải từ bỏ giấc mộng Bác Sỹ, vào trường Sư Phạm. Miền Nam bị cưỡng chiếm, đưa biết bao người vào bước ngoặt mới của cuộc đời, trong đó có gia đình tôi. Má tôi mất sau đó một tháng, ba đi cải tạo về chưa có việc làm, mọi việc trong nhà đều đặt nặng trên vai bà chị Cả và anh Hai vì lũ chúng tôi còn trong lứa tuổi ăn chưa no lo chưa tới.

Lúc đó anh đang dạy học ngoài Cần Thơ, nhưng là thủ lĩnh tinh thần của cả nhà. Một vài tuần anh bắt xe về thăm nhà, dặn dò mọi điều, rồi trở về Cần Thơ. Anh cũng là người cương quyết không cho gia đình nghe lời dụ dỗ và ép uổng của chính quyền đi kinh tế mới. Và cũng chính anh, là người nhen nhóm trong nhà tôi hai chữ “vượt biên”, vì như theo lời anh nói, “không thể sống chung với cộng sản”.

Lần đó anh về thăm nhà như thường lệ, rồi họp cả gia đình, báo tin buồn, anh bị “trúng tuyển nghĩa vụ quân sự” theo chỉ tiêu của nhà trường để đáp ứng nhu cầu gửi quân qua biên giới Campuchia. Bà chị Cả khóc lóc, ba tôi rầu rĩ, mấy anh em khác thì lặng im che dấu nỗi buồn, nhưng anh Hai tôi mỉm cười cho mọi người lên tinh thần. Sau đó anh nói:

  • Đây chính là cơ hội để con tìm đường đi bộ qua biên giới, vào Thailand tỵ nạn, xin mọi người bình tâm mà cầu nguyện cho đầu xuôi đuôi lọt.

Nói rồi anh lấy trong túi xách ra tấm bản đồ biên giới Campuchia-Thailand mua ngoài chợ trời. Tấm bản đồ bằng Tiếng Anh, nhưng với vốn liếng mấy năm học ở Hội Việt Mỹ trước năm 1975, và giáo viên dạy Anh Văn tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ, thì tờ bản đồ anh xem không khó gì. Anh vẽ chi chít và ghi chú cẩn thận trên bản đồ, và chỉ cho mọi người xem dự tính của anh, sẽ đào ngũ, đi qua Siêm Riệp, rồi từ đó theo đường mòn biên giới vào Thái. Nghe anh nói ngon ơ, nhưng ai cũng biết là biết bao hiểm nguy chờ đợi. Bọn Khmer Đỏ còn rình rập giết chóc, đường rừng ngập các bãi mìn, chưa kể là lính đào ngũ còn bị quân đội Việt Nam tìm bắt ráo riết, chạy đâu cho thoát. Cả nhà ngày đêm cầu nguyện, lắng lo thì bỗng ba tuần sau anh về nhà, báo tin vui, vì nhà trường cần những giáo viên giỏi như anh, nên đã xin đặc biệt cho vài giáo viên được tạm hoãn thi hành “nghĩa vụ quân sự”. 

Sau lần đó, anh vẫn kiên quyết tìm đường vượt biển, nên mùa hè năm tới anh ra khơi, và xui xẻo thay, cả nhóm bị bắt khi đang chờ tàu lớn, rồi bị giam lại Long Đất chín tháng trời. Khi ra tù, anh mất việc, mất cả hộ khẩu nên tìm về Sài Gòn, ở nhà “ ăn không ngồi rồi” đợi chờ cơ hội tiếp theo. Trong thời gian này, anh lại đi tìm ngoài chợ trời mua sách của Hải Quân VNCH, và la bàn đi biển để học cách làm hoa tiêu. Anh vào thư viện tìm thêm tài liệu, lục lọi các tiệm sách cũ…và rồi cuối cùng, nhờ bạn bè giới thiệu với một chủ tàu, anh được mời đi vượt biên miễn phí với tư cách là hoa tiêu. Họ còn cho anh dẫn theo một người, mà trong gia đình tôi lúc đó, tôi là “ứng cử viên” sáng giá nhất cho chuyến đi vì tuổi mới lớn, vừa bước vào trung học, có cơ hội học tiếp khi qua Mỹ. Anh đã trằn trọc mấy đêm liền, không biết có nên mang tôi đi theo hay không. Vì lúc đó thời tiết bị ảnh hưởng bão nên mưa gió, ngoài biển đâu phải lúc nào cũng êm ả. Mà chuyện đi vượt biên thì đầy may rủi, “con nuôi má” thì ít, mà “con nuôi cá” và “má nuôi con” cũng chẳng hiếm, chưa kể nạn cướp biển đang hoành hành. Xóm tôi cũng đã có mấy gia đình cho con cái đi mà chẳng bao giờ đến nơi, cũng không trở về nhà. Đêm cuối cùng trước khi ra biển, anh thao thức đến khi trời gần sáng. Không ngủ được, anh ra ngoài phòng khách tìm nước uống. Khi đi ngang qua chiếc giường thấy tôi đang ngủ say, bên cạnh là chiếc bàn học của tôi sách vở xếp gọn gàng với chiếc cặp táp chuẩn bị đến trường ngày mai. Thế là anh quyết định dứt khoát, anh sẽ ra đi một mình, để tôi được tiếp tục những ngày tươi đẹp êm đềm của tuổi học trò. Vì anh là “mạng cùi”, không còn gì để mất, còn tôi là “mạng vàng”, mới lớn ngây thơ, anh không dám mang ra biển cả gian nguy, bấp bênh. 

Trời không phụ lòng người, chuyến đi may mắn thành công, cập bến Bidong, Malaysia dù anh mới lần đầu làm hoa tiêu. Thuyền vừa vào bờ đất Mã, mọi người sung sướng lạy trời lạy đất cảm tạ, còn anh thì mang nỗi day dứt khi để tôi ở lại nhà. Suốt thời gian ở trại, mỗi lần ra cầu Jetty đón người mới đến, hay khi đứng trên lớp dạy Tiếng Anh cho đồng bào tỵ nạn, anh vẫn chưa nguôi nỗi buồn tiếc nuối đó. Vì vậy, anh quyết tâm bằng mọi giá, sẽ bảo lãnh toàn bộ gia đình qua Mỹ trong thời gian sớm nhất. 

Từ trại tỵ nạn, anh đến định cư tại thành phố Wichita, Kansas là bắt đầu tìm hiểu chuyện học đại học. Giấc mơ Y Khoa năm nào chợt bừng sống lại, nhưng ở độ tuổi ngót nghét ba mươi, chương trình học Y vừa dài vừa tốn kém. Vì mục tiêu lớn hơn là cứu gia đình còn kẹt lại Việt Nam, một lần nữa, anh phải từ bỏ ước mơ của mình, vào học ngành Engineer. Anh vừa đi học vừa đi làm cuối tuần để một vài tháng “tiếp tế” cho gia đình một thùng quà chất lượng. Hàng xóm chung quanh hay nói với tôi: 

  • Nhà người ta có con gái qua Mỹ gửi đồ về là sung sướng lắm, vì con gái biết thu vén tối đa cho gia đình. Còn nhà cô, chỉ cần một ông anh thôi cũng bằng hai, ba cô con gái nhà người ta cộng lại.


Nhờ thông minh, siêng năng cần cù, dù vừa học vừa đi làm, anh tốt nghiệp Electrical Engineer với điểm xuất sắc (Cum Laude), được chọn ghi tên vào cuốn sách Who’s Who Among Students in American Universities. Vừa ra trường, anh đầu quân cho hãng Boeing, sau chuyển qua Tinker Air Force Base của chính phủ liên bang ở Oklahoma, rồi lại qua Defense Contract Management Agency (DCMA) under U.S. Department of Defense tai Dallas, Texas cho đến ngày nay.

Ngay khi vừa vào đại học, anh đã bắt tay vào việc làm hồ sơ bảo lãnh gia đình. Trong khi nhiều người bạn học khác chỉ lo học hoặc đi làm, chưa thấy được tầm quan trọng của việc bảo lãnh thân nhân, thì anh đã xúc tiến từng bước thủ tục. Anh tự tìm hiểu qua phone hoặc trên giấy tờ (thuở ấy chưa có internet để lên mạng dễ dàng như ngày nay). Không cần đến văn phòng luật sư, anh sử dụng khả năng English của mình rất kiên nhẫn, tự tin, theo dõi cập nhật hồ sơ một cách khoa học, đúng trình tự.

Cuối năm 1989, vì nôn nóng không thể đợi giấy tờ bảo lãnh hiệu lực, gia đình đã cho tôi đi vượt biên, và tôi đến trại tỵ nạn Panatnikhom, Thailand. Nghe tin tôi đến trại, anh mừng rỡ vô cùng. Mỗi tháng anh gửi tiền chu cấp đều đặn. Khi những người xung quanh tôi, cũng có thân nhân nước ngoài, người thì nhận tiền nhỏ giọt, người thì tháng có tháng không, còn tôi thì cứ tuần đầu tháng là có thư, vì cứ mỗi ngày mồng một của tháng, anh hoặc vợ anh (lúc ấy anh mới lập gia đình) đi gửi tiền, suốt bốn năm như thế, chưa trễ một lần nào.

Đặc biệt, lúc đó, anh tôi còn “nổi tiếng” trong trại, ít nhất là khu tôi ở, vì sự chăm lo “có một không hai” dành cho cô em gái là tôi. Sợ tôi bị rớt thanh lọc, anh bảo tôi cứ bình tĩnh để anh tìm cách, chứ dứt khoát không để tôi phải quay về Việt Nam. Anh nghĩ ra giải pháp đăng trên mục “Tìm Bạn Bốn Phương” của Mỹ giùm tôi, với ước mong sẽ tìm được một người nào đó, tốt đẹp, và biết đâu sẽ tiến xa hơn, đưa tôi qua khỏi cuộc thanh lọc. Nên mới có chuyện một buổi sáng kia, cả dòng người xếp hàng chờ thư bên bưu điện xôn xao vì tôi có hơn 20 lá thư trên list, mà toàn là từ Mỹ và tên người gửi cũng là tên Mỹ. Nhưng rồi giải pháp đó cũng chẳng có kết quả gì.

Còn nữa, sợ viết trong thư không thể nói hết về nước Mỹ để tôi mở mang kiến thức, anh còn ngồi thâu băng cassette, kể chuyện nước Mỹ cho tôi nghe. Kể về thành phố Wichita thời sinh viên của anh, về thành phố San Antonio nơi gia đình anh đang sinh sống, về các trường đại học, về cuộc sống người Việt và người Mỹ, về mọi thứ trên đất Mỹ. Đêm đêm tôi mở cuộn băng “Nước Mỹ” cho cả lô nhà cùng nghe (bằng cái máy cassette nho nhỏ chạy bằng loại battery có thể rechargeable anh gửi). Mọi người nằm nghe say mê, rồi đi vào giấc mộng êm ái mơ màng với nước Mỹ bên kia bờ đại dương. Một hôm, có người tìm đến căn nhà tỵ nạn tôi, hỏi lớn:

  • Cô Loan ơi, cho tôi mượn cái băng cassette.

  • Băng ca sỹ Ngọc Lan hả anh? (Vì chị dâu tôi cũng hay gửi băng nhạc cho tôi nghe, bà con xung quanh cũng hay qua mượn)

  • Khồng…ồng …!! Tui muốn cái băng “Nước Mỹ” mà anh cô kể chuyện hấp dẫn đó.

Trời! Tôi đâu ngờ sự “nổi tiếng” của anh tôi đã vượt ra khỏi lô nhà tôi đang ở, mà lan truyền qua cả những lô khác. Cho người đó mượn băng “Nước Mỹ” hơn hai tuần chưa thấy trả lại, tôi đến tìm, họ xin lỗi bằng cách cười trừ, rồi khai thiệt là đã chuyền tay cho người này, người nọ cùng nghe. Cuối cùng, tôi tìm được nhà chú kia, người thứ bao nhiêu sau khi chuyền tay cũng chẳng nhớ. Chú ấy phân trần:

  • Chẳng dấu gì cô, tui cũng có thằng con bên Mỹ. Tiền viện trợ nó gửi còn thưa thớt, tháng nhớ tháng quên, chớ đừng nói gì đến chuyện kể về nước Mỹ cho tui nghe.

  • Dạ, vậy bây giờ chú nghe băng “Nước Mỹ” xong chưa, cho con xin về cho người khác mượn.

  • Cô để thủng thẳng tui nói hết đã chứ. Tuần sau cô quay lại lấy được không, vì tôi đem cuốn băng đó ra tiệm nhờ sang ra hai ba cuốn, mà họ làm chưa xong!

  • Úi trời, chú sang ra hai ba cuốn làm gì?

  • Thì để cho bà con chung trại cùng nghe, và một cuộn tôi sẽ gửi về Việt Nam cho vợ con tui biết về nước Mỹ, cô thông cảm nha!


Nhờ may mắn, có thêm sự “cố vấn” của anh, tôi đã vượt qua cửa ải thanh lọc, nhưng “phúc bất trùng lai”, tôi bị phái đoàn Mỹ từ chối tại cuộc phỏng vấn, và theo lời khuyên của anh, tôi xin định cư bên Canada. Vừa qua Canada chưa kịp nóng chỗ, anh tôi đã lên ngay chương trình đưa tôi qua Mỹ, nhưng “người tính không bằng trời tính”, tôi có nợ có duyên với xứ lạnh tình nồng cho đến nay. (Tôi có viết rõ chuyện này trong bài Giấc Mơ Mỹ Quốc). 

Trong thời gian bốn năm tôi bị kẹt bên trại, gia đình tôi bên Việt Nam lần lượt đi qua Mỹ theo diện ODP bảo lãnh của anh tôi. Vậy là anh đã thoả mãn ước mong, không còn một thân nhân ruột thịt nào còn lại với chế độ Cộng Sản. Mấy người bạn cũ thời đại học Wichita của anh, có người lận đận mãi mới đưa được người nhà qua đây, thậm chí có người vẫn còn cha mẹ bên quê nhà, chỉ vì hồi đó chủ quan và…làm biếng! Họ nói với anh:

  • Tụi tôi phục ông sát đất! Không tốn một đồng xu nào cho luật sư mà đưa được cả gia đình anh chị em qua đây đầy đủ. Hồi đó tụi tôi không chịu nghe lời khuyên của ông, giờ hối hận thì đã muộn!!


Là người đi trước, anh hướng dẫn, chỉ bảo kinh nghiệm cho các anh chị em trong nhà những bước đầu hội nhập trên xứ Mỹ. Tới đám con, cháu, thế hệ thứ hai, anh luôn khuyến khích hướng tới các ngành đại học danh giá, dễ kiếm việc, nhất là Y Khoa mà anh đã phải từ bỏ. Rất tiếc là lũ trẻ chỉ học theo ý thích của chúng, không say mê làm bác sỹ, nên có đứa học Dược, có đứa học Nha, rồi kỹ sư cơ khí, kỹ sư điện toán, Computer, Y tá …cũng làm anh rất vui lòng. 

Anh là cuốn “Từ Điển Bách Khoa” của đại gia đình tôi với trí nhớ dẻo dai, hiểu biết rộng và chính xác. Mỗi lần qua Mỹ, tôi say sưa ngồi nghe anh nói chuyện hàng giờ mà vẫn chưa đủ. Tên quốc tịch của anh là David, và tôi hay gọi một cách thân thương là “anh Dave thông thái của chúng ta”. Riêng kiến thức về nước Mỹ thì anh có thể nói không cạn đề tài. Ngoài lãnh vực chuyên môn nghề nghiệp, còn có chuyện chính trị, xã hội, y tế .v.v…vì anh là một công dân Mỹ gương mẫu, yêu nước Mỹ và tự hào về nước Mỹ. Các gia đình anh chị em chúng tôi (kể cả tôi bên Canada) đều treo tấm bản đồ nước Mỹ trong nhà, là món quà đầu tiên anh tặng cho mỗi gia đình.

Cứ ngỡ anh đã an phận vì “giấc mơ Mỹ Quốc” của gia đình mình đã trọn vẹn, nhưng anh vẫn quan tâm giúp đỡ những người quen khác còn ở Việt Nam. Hàng năm vào dịp Tết, anh đều đặn gửi tiền cho vài hàng xóm vẫn còn lao đao nghèo khó. Chị Nga Sún bán khoai luộc đầu xóm mỗi lần nhận tiền đều cười vui vẻ, khoe:

  • Ôi, hồi đó mỗi lần ảnh từ Cần Thơ về xóm là chiều chiều đi ngang qua nhà tui. Thằng con tui thấy ảnh về là đem bài tập qua hỏi thầy giáo liền á!

Bác Sương kế bên nhà tôi ngày xưa phát biểu: 

  • Nói thiệt, hồi đó tui chỉ mong cậu ấy ngắm nghía con gái tui là tui bắt về làm rể. Ai ngờ, cậu ấy ôm mộng vượt biên!

Riêng tôi còn nhớ chị Quỳnh Giao, xinh đẹp thuỳ mị nhất nhì trong xóm, có lần đến thăm anh khi anh mới về thăm nhà. Hai người ngồi ngay phòng khách nói chuyện tới khuya. Chiếc giường ngủ của tôi kế bên đó, tôi chỉ nhắm mắt giả vờ ngủ, để nghe được những câu dịu dàng nũng nịu chị đã trách móc anh tôi: 

  • Lần nào anh về cũng không có thời giờ qua nhà thăm em sao? Em chờ hoài chẳng thấy nên đành phải…xuống nước qua đây tìm anh đó, anh hiểu không?

Hình như anh tôi có cười xin lỗi, và chắc sau này chị ấy đã hiểu, anh phải gạt bỏ chuyện tình yêu để ưu tiên cho chuyện vượt biên, tìm tương lai tươi sáng và lo cho gia đình.

Với những học trò trường Phan Thanh Giản xưa và những họ hàng xa ngoài miền Bắc, anh làm theo phương châm “giúp họ câu cá tốt hơn là cho họ cá”, vì quà cáp cho họ anh cũng vẫn làm, nhưng biết bao giờ mới đủ? Ai đang độ tuổi kết hôn, hoặc đã dang dở hôn nhân, nếu có ước muốn, anh đều giúp bước đầu bằng cách đăng mục Tìm Bạn Bốn Phương của Mỹ (kiểu này nhanh hơn Tìm Bạn Bốn Phương với Việt Kiều). Sau đó tuỳ theo duyên phận của từng người, mà kết quả cũng có vài mối lương duyên Việt-Mỹ, đang có happy ending trên đất Cờ Hoa.


Mới đây trong lần Family Reunion bên Texas nhân dịp đám cưới đứa cháu, tôi hỏi đùa anh: 

  • Giờ anh có còn muốn đưa ai qua Mỹ nữa không nà?

Anh cười lớn:

  • Nếu được, anh ước gì mang toàn dân Việt Nam qua đây, cho họ nếm mùi “tư bản rẫy chết” của Mỹ, nhưng coi bộ khó quá. Thôi thì chỉ cầu mong cho quê hương mau dẹp tan cái đảng Cộng Sản ăn hại, cho người dân được nhờ.

Tôi nói tiếp:

  • Tờ Việt Báo bên California đang có cuộc thi Viết Về Nước Mỹ, anh cho em viết về anh nhé.

  • Anh thì có gì mà viết?! Mà nếu có, thì đó là lời Tạ Ơn cuộc đời, Tạ Ơn Nước Mỹ đã cho anh cơ hội tiến thân, và cơ hội giúp lại người khác như một cách đền ơn xứ sở đã cưu mang anh mấy chục năm qua …


Đó là lý do bài viết này ra đời!


Edmonton, Tháng 2. 2020

Kim Loan



Ý kiến bạn đọc
28/02/202004:03:49
Khách
Kim Loan có một người anh rất giỏi và nhân hậu. Kim Loan rất có phước khi có được một người anh lúc nào cũng thương yêu và lo lắng một cách chu đáo cho em gái của mình. Mong đọc được những bài kế tiếp của Kim Loan.
27/02/202016:18:29
Khách
Một bài viết hay thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ và biết ơn của tác giả đối với một người anh thông minh, tháo vát, biết lo cho gia đình, và luôn cả những người quen biết cũ, trong lúc đất nước đang trải qua những trang đen tối của lịch sử .
27/02/202013:34:44
Khách
Kim Loan thật có phước có Anh Hai thật tuyệt vời.
Anh hai của Loan là một trí thức đúng nghĩa, vì ngoài bằng cấp ra anh hai còn có nhân thiện mỹ . Đời sống hôm nay với những mạng xã hội , thế giới ảo v.v. kim Loan có món quà tinh thần hiếm quí là anh hai thì thật là hạnh Phúc.
Quí chúc Anh Hai và Kim Loan dồi dào sức khỏe sống lâu và hạnh Phúc
26/02/202017:52:33
Khách
Mừng Kim Loan có người anh quá giỏi và có tâm, có lòng với gia đình, hàng xóm, và mọi người. Bài viết rất thú vị, mạch lạc. Cám ơn nhiều.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 1,678,772
Tác giả hiện sống ở thành phố Victorville, California, đã từng tham gia VVNM năm 2018.
Tác giả một mình vượt biển giữa thập niên 80 khi còn tuổi học trò. Dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, cô nhận giải danh dự 2001. Bốn năm sau, nhận thêm giải vinh danh tác phẩm 2005. Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Khi được hỏi về những hiểm họa có khả năng đe dọa tới đời sống nhân loại, nhà vật lý siêu đẳng Stephen Hawking nhắc tới bốn điều: thứ nhất, một cuộc chiến tranh hạt nhân bất ngờ; thứ nhì, vi khuẩn biến đổi gen; thứ ba, trái đất ấm dần; và thứ tư, những hiểm họa khác mà con người vẫn chưa biết. Lời tiên đoán của ông ngày hôm nay đang trở thành một hiện thực. Từ khi xuất hiện trên trái đất, vi khuẩn Vũ Hán họ Corona chủng mới tiếp tục đánh gục lần lượt từng quốc gia. Trung Cộng trước tiên, rồi Hàn Quốc, rồi Iran, Ý, và Âu Châu, tiếp nối là Úc và Hoa Kỳ. Mới nhất, Ấn Độ với hơn 1 tỷ người cũng đã phong tỏa. Đến ngày hôm nay, cả thế giới đều chưa kiếm ra vũ khí để chặn đứng vó ngựa bách chiến bách thắng của đoàn vi khuẩn Vũ Hán. Bởi thế, vi khuẩn Corona chủng mới đi tới đâu, nơi đó không còn bóng người.
Cả tuần ở ẩn, sáng trưa chiều tối, anh và em, hai người không xa lạ 24 giờ trên 24 bốn mắt nhìn nhau quen quen mấy mươi năm nay, bỗng tự giam hãm ta với mình cận kề đến đuối sức. Ngày hai buổi cơm hai đứa coi TV quanh quẩn dịch bệnh Tàu cộng, thế sự đó đây toàn cầu mang màu tử khí từ vi khuẩn cô vy 19, Tàu tuyên bố hết bệnh, thế giới bước vào dịch bệnh dãy dụa tức tưởi.
Tôi có anh bạn học cũ thời trung học, lớp đệ nhất C ở trường Võ tánh, Nhatrang, tên Dũng, rất thân. Đậu tú tài 2 năm 1963, Dũng vào làm ngành cảnh sát, lên chức đại úy trưởng ty ở Nhatrang mấy năm thì VC vào năm 75, phải đi tù cải tạo 10 năm. Tôi tuy cũng nhập ngũ nhưng gốc giáo chức, nên chỉ ở tù một năm , sau đó về nhà nai lưng làm đủ thứ nghề lao động tay chân sinh sống qua ngày.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Đặng Hà Nội tên thật là Đặng Thống Nhất đã từng dậy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota. Thú tiêu khiển của tác giả là viết truyện, hội họa và du lịch trong khi về hưu.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. bài viết mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Khi còn đi học, trong trường tôi có lưu truyền mấy câu thơ về hoàn cảnh lịch sử sang trang của nước nhà sau năm 1975. Mấy câu thơ do một thằng phản động nào đó đã sáng tác, nhưng tôi lại nhớ mãi đến bây giờ những lời thơ như lời nguyền ấy, “Bốn ngàn năm ta vẫn là ta/ từ trong hang đá chui ra/ vươn vai một cái… lại chui ngay vào.” Thuở còn đi học thì lấy đó làm vui với ngụ ý chế giễu những người trong rừng ra nhưng họ tự hào họ là đỉnh cao trí tuệ, vì thế họ cai trị miền nam chiếm được từ có cơm ăn trong chiến tranh trở thành đói khát sau hoà bình. Bỗng chiều nay nhớ lại thời ngồi nghe mấy ông thầy ngoài trường Sư phạm Hà nội vào Sài gòn giảng dạy về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc ta đã có bốn ngàn năm lịch sử, nhưng chỉ có bác Hồ vĩ đại là người duy nhất đã lãnh đạo dân tộc tiến tới thắng lợi cuối cùng là thống nhất đất nước, giảnh lại được độc lập tự do hạnh phúc cho đất nước và dân tộc ta…
Tác giả từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018 và giải vinh danh Tác Phẩm 2019 Là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển, ơng định cư tại Mỹ từ 1990, hiện làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Đây là bài mới nhất của Ông.