Hôm nay,  

Du Học Mỹ Năm 1975

26/05/201700:00:00(Xem: 16852)

Tác giả: Chú Chín Cali
Bài số 5127-18-30807-vb6052617

Tác giả bắt đầu tham dự VVNM năm 2015 và được giải danh dự. Bài viết mới nầy là một bút ký viết về đời sống các sinh viên Việt Nam du học ở Mỹ trong lúc Miền Nam bị sụp đổ năm 1975. Tác Giả dạy học lúc còn ở VN. Du học Mỹ năm 1973. Ông làm việc cho Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế (USAID) và Louisiana State University International Programs. Ở Mỹ ông là Water Resources Engineer cho Water Resources Dept, tiểu bang Arizona. Ông đã về hưu và đang định cư ở Orange County.

* * *

blank
Horsetooth reservoir (Fort Collins) và tác giả (1974).

Tôi bỡ ngỡ đứng trước George Town University (Washington DC) với hai cái va-li to tướngngơ ngác trước sự vĩ đại của trường đại học thì có mấy sinh viên, có lẽ là người ngoại quốc, xáp vào hỏi chuyện rất là thân thiện. Rồi họ xúm nhau đứa đẩy vali, đứa mang túi xách, giúp tôi đi đến khu International Programs để tìm hai người bạn đang học ở đây. Tôi vừa mới bước chân đến Mỹ.

An và Quí đẩy cửa bước vào phòng đợi gặp tôi. Vừa thấy tôi hai ông bạn trố mắt ngạc nhiên, mừng rở. Quí bật miệng trước:

- Ủa! Trời đất! Ông mới tới sao?

- Sao không gọi tụi tui? Anh An chen vô.

Tôi đang sung sướng thấy mình như vừa thoát qua một cơn ác mộng, trả lời đùa:

- Biết cách gọi điện thoại chết liền, rồi nói tiếp:

- Định nằm vạ ở phi trường, mấy xếp mình làm ăn cái kiểu gì kỳ cục quá, đem con bỏ chợ! Tôi đến phi trường Washington DC nhưng không thấy ai đón cả. Hên quá mò được tới đây gặp được hai ông!

Quí và An đưa tôi về Hartnett Hall, nhà trọ nơi hai anh đang tạm trú được tháng nay. Cái studio nhỏ xíu. Tôi ngủ tạm trên Sofa đêm ấy. Quí đã nhường cho tôi cái mền nhưng vẩn thấy lạnh thấu xương.

Đó là đêm đầu tiên tôi ở Mỹ, và cũng là cái đêm kỷ niệm lần đầu tiên tôi được nhìn tuyết rơi lả tả qua ánh sáng ngọn đèn đường trước nhà. Tuyết thật chứ không phải tuyết trong TV.

Suốt đêm trằng trọc vì bị “jet lag” lại bị lạnh cóng,tôi chỉ mong cho trời sáng mau để được ra ngoài sân xem tuyết. Vừa mở cửa ra sân tôi vội thục lùi vì không khí lạnh ùa vào phòng lạnh buốt. “Xứ gì mà lạnh quá”, tôi lầm bầm trong miệng. Tuy nhiên tôi không thể giữ được tiếng “wow! ” ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh tuyết trắng phủ đầy, ngoài sân, trong vườn, trên mái nhà, ngoài đường phố, bám đầy trên các cành cây trơ trụi, sáng rực một màu trắng long lanh. Tôi ngỡ như mình đang sống trong mơ vì mới ngày hôm qua tôi còn vẫy tay chào thân nhân đưa tiển ở phi trường TSN, mồ hôi nhễ nhại ướt cả cái áo “vét-ton” còn thơm mùi vải mới.

Rồi cả ba chúng tôi dọn về một “boarding house” khác ở đường Wyoming St, nơi đây chúng tôi sẽ ở trọ ba tháng để tiếp tục học Anh ngữ.

Thời gian ở Washington DC có lẽ là thời gian đẹp nhất của chúng tôi ở Mỹ. Tuổi trẻ vô tư, đầy sức sống. Tâm hồn trong sáng hồn nhiên với viễn ảnh rực rở về tương lai đang thênh thang rộng mở. Chúng tôi không biết lo biết buồn là gì. Ở thập niên 1970s được đi du học Mỹ là một đặc ânvàchúng tôi là những người may mắn nhất.

Xứ Mỹ bao la vĩ đại nhưng bị thu nhỏ lại trong phạm vi chúng tôi có thể đi bộ được: từ nhà đến trường cách xa chừng 3- miles, cái chợ “Safe Way” cách vài “blocks” và trạm xe buýt ở bên kia đường.

Ba ông “Hai Lúa Cần Thơ” lúc nào cũng đi chung, ngày ngày cắp sách đến trường, cuối tuần đi chợ hoặc đón xe bus xuống downtown Washington DC để lục lạo dưới basement tìm đồ “on sale” giá bèo.

Đi đâu bọn tôi cũng xách theo cây dù kể cả lúc trời không mưa không nắng. Có người thắc mắc hỏi sao lại xách dù đi phố? Xin thưa, chúng tôi dùng dù làm vũ khí tự vệ. Nếu lở có bị mấy đứa Mỹ đen đứng lù lù ở mấy gốc đường tấn công ẩu, ông sẽ dùng dù chĩa cho nó đổ ruột! Washington DC nhiều Mỹ đen thấy ghê lắm.

blank
Georgetown Univ. Tác giả (1st), An (3rd), Quí (4th),và các bạn cùng lớp.

Boarding house cung cấp bữa ăn sáng. Ông bà chủ tuy là Mỹ trắng nhưng vì sống lâu năm với đám người ngoại quốc nên làm biếng nói tiếng Mỹ, họ cứ “what” hoài mắc công giải thích. Mỗi thực khách được chọn hai quả trứng gà mỗi buổi sáng. Thay vì hỏi “How do you like your eggs (cooked)” rồi phải giải thích lòng vòng ông hỏi thẳng:

“Hard-boiled, scrambled or over easy? ”

Mình được chọn trứngmột trong ba kiểunầy: trứng luộc, trứng đánh chiên hoặc trứng chiên còn nguyên. Sữa tươi, cereal, coffee dùng thoải mái nhưng trứng thì chỉ có 2 quả. Ngày 2 quả, một tháng 60 quả. Thuở ấy làm gì có hàng quán Việt Nam để thay đổi món ăn sáng như mì, phở hay bún bò Huế! Ba chàng đếm quả hằng ngày nghe ớn đến cổ nên bàn nhau chuyện lén nấu món Việt Nam trong phòng ngủ.

Thức ăn được giữ trong tủ lạnh do kỹ sư Cần Thơ tự chế, làm bằng thùng carton để ngoài cửa sổ. Lúc ấy là mùa đông, trời Washington DC khá lạnh nên cái tủ lạnh tự chế “chạy” rất tốt, chứa đầy nước ngọt, bia, trái cây, rau cải, sữa bò.. đủ thứ. Chỉ cần mở cửa sổ, thò tay vào thùng carton là lấy được đồ trong tủ lạnh.

Đầu bếp chánh của chúng tôi là anh HànAn, chuyên nấu món gà rô ti. Anh “chuyên” món nầy vì đó là món duy nhất anh biết. Anh An, người cao lớn nhưng ốm nhom. Trước khi đi Mỹ, bà xã anh sợ ông chồng ốm yếu ở Mỹ thiếu ănnên dạy anh nấu món nầy tẩm bổ. Tôi và Quí là bếp phụ nên chiên xào đủ thứ, những món không tìm thấy trong sách dạy nấu ăn.

Thỉnh thoảng chúng tôi nhận thêm hội viên mới, từ Việt Nam sang Mỹ tu nghiệp ngắn hạn hoặc dự các hội nghị. Tuy ở Việt Nam cở hàng Giám Đốc, Trưởng Phòng, nhưng khi gia nhậphội chỉ có hai chức vụ,hoặc đầu bếp hoặc busboy, tự chọn. Anh Lợi (G. Đ. Phủ Tổng Thống) thêm vào menu món gà nấu cam, anh Dương Minh Đức (G. S. ) vừa tốt nghiệp xong, trên đường về Việt Nam) lảnh phần phục vụ, dọn dẹp. Trải báo ngồi dưới thảm mà ăn, mọi người hồn nhiên, vô tư như đám học trò nội trú.

Hàng ngày ba “cậu” đầu đội nón, cổ quấn khăn, trịnh trọng xách cặp Samsonite đến trường. Chúng tôi đi bộ trên những con đường nhỏ dọc theo những hàng cây trơ trụi. Hai bên đường là những dải nhà xưa cổ kính, xây bằng gạch đỏ, cửa đóng im lìm có treo vòng hoa Christmas. Ngoài đường không một bóng người đi lại. Thỉnh thoảng có ông già dẫn chó đi bộ. Đường phố vắng hoe. Lâu lắm mới có vài chiếc xe qua lại. Mùa đông ở Washington DC buồn đứt ruột.

Sau ba tháng học Anh văn ba “cậu” dọn nhà bếp về Fort Collins, CO. để vào đại học CSU. Trong suốt 2 năm đi học ở CSU, ba đứa tôi ở chung một nhà trọ. Nhờ vậy món gà rô ti độc nhứt vô nhị của anh An vẫn còn đủ ba người khách trung thành.

Tuy đã được huấn luyện Anh văn rất kỹ ở Hội Việt Mỹ ở Việt Nam và ở George Town University, phải đủ điểm Toefl trước khi vào đại học, trình độ Ang ngữ của chúng tôi còn rất yếu. Mấy “semesters” đầu tiên ở Đại Họctôi nghe thầy giảng như vịt nghe sấm. Thời gian học lại cố định nên phải lấy nhiều lớp một lúc mới kịp thời gian. Vì là sinh viên cao học nên tôi phải lấy những lớp cao nên “lội” thấy mà thương để theo kịp các sinh viên khác. Phải mượn “notes” của bạn bè. Phải tra tự điển từng từ ngữ một trong ngành chuyên môn. Tuy nhiên, kết quả thi cử lại thường rất là khích lệ vì sinh viên Việt Nam nổi tiếng là mọt sách. Trong khi các sinh viên khác “party” vui chơi, chúng tôi cậm cụi“cày”, lọ mọ ngày đêm trong thư viện.

Trước năm 1975, chưa có người Việt tị nạn nên người Việt ở Mỹ rất ít. Lúc ấy cũng chưa có từ ngữ “Việt Kiều”. Ở trường CSU, có khoảng mươi mấy sinh viên Việt nam, gồm đủ thành phần như trường Vỏ Bị Quốc Gia Đà Lạt, bộ Kinh Tế, ngân hàng Phát Triển Nông Nghiệp, Đại Học Nông Nghiệp… Hầu hết sinh viên đều có học bổng của USAID, được chăm sóc bởi một “Liaison Oficer”, Dr. Webber.

Trước khi đi Mỹ ba đứa tôi được xếp ngạch là Giảng Nghiệm Viên đại học, chỉ số lương 500, thuộc về hạng khấm khá, lương tháng khoảng 40,000 đồng ($340) trong khi ấy lương lính Dân Vệ khoảng 13,000 đồng. Đi du học theo kiểu công chức như bọn nầy, ngoài tiền lương ở VN gia đình lãnh đủ, còn được học bổng cho thêm $300 tiền mặt mỗi tháng để chi xài. Ăn uống tốn khoảng $100, tiền phòng mất $100, con dư $100 đô xài hoài không hết, tôi để dành mua xe hơi.

Chiếc xe đầu tiên tôi mua $300 đô, Pontiac Catalina 1969. Xe cũ nhưng tuyệt đẹp, nệm da, trong ngoài láng cón. Nó lớn đến nỗi nằm trên nệm sau khỏi phải co chân. Ông cố đạo bán xe cho tôi, đã lấy tiền bỏ túi nhưng không chịu đi, cứ đứng nhìn hoài tiếc rẻ chiếc xe! Trước khi đi, ông còn vỗ vào đầu xe mấy cái rồi trách móc “sao mầy nỡ bỏ tao! ” tuy rằng ông là người bán nó!

Chúng tôi có được chiếc xe làm chân, tôi làm tài xế cho các người Việt mới đến,cuối tuần đi đi câu cábẻ măng tây mọc hoang. Cá thì không thiếu, chỉ thiếu người làm cá!

Trong thời gian trường nghỉ xả hơi (school break), mấy đứa chúng tôi chất đầy xe đi khám phá xứ Mỹ vì sợ rằng một khi về VN sẽ không còn cơ hội trở lại nữa, như đi Grand Canyon, Yellow Stone, Golden Gate,Yoyemite, Dead Valley, Disney Land, Universial Studio, Sea World…

Đi chơi đến đâu chúng tôi ở tạm nhà các bạn bè, đều là sinh viên với nhau. Lúc ấy còn trẻ, tôi lái xe cả ngày đêm không biết mệt, khi buồn ngủ ghé qua các “rest areas” ngủ tạm. Cả bọn sống bụi đời, lại ỷ đông nên không biết sợ mấy tên bụi đời thứ thiệt ở đó. Bây giờ nghĩ lại mới thấy ớn.

blank
Gia đình anh chị Sáu Minh ở Fort Collins và đám sinh viên.

Tôi còn nhớ kỷ niệm lần đầu lái xe trên xa lộ ở California. Quen lái xe trong thành phố Fort Collins nhỏ xíu loe ngoe mấy chiếc xe nên khi lái lần đầu trên xa lộ ở California, hồn vía tôi muốn xuất. Tay đổ mồ hôi ướt mẹp. Không ngờ ở đây người ta chạy xe khiếp quá! Tôi là tài xế lái xe, mà như lái chiếc máy bay Boing 747, có hai phi công phụ, người đọc bản đồ, người phụ nhìn xe cộ.

- Ối cha, sao mà khiếp quá. Còn bao xa hả Quí? Tôi hỏi.

- 2 miles thì exit. Ông coi đổi lane thì vừa. Quí trả lời.

- Xe nhiều quá, coi đằng sau giùm tui anh An.

- Khoan… khoan, còn cả dọc xe, bật signal chưa?

- Rồi nhưng tụi nó không nhường

- Thì ông vọt lẹ lên đi, chạy tè tè như vầy làm sao sang lane được.

- Bảy chục rồi cha nội.

- Thì chậm lại cho nó qua. Không kịp bây giờ.

Quí, chuyên viên bản đồ, hoảng hốt la:

- Chết cha rồi, exit trước mặt đó.

Có tiếng An la:

- Ok, OK, nó nhường rồi, đổi lane đi, lẹ lên.

Tôi vừa đổi được lane là thấy cái exit lù lù trước mắt. Nếu bỏ cái exit nầy… thì phiền lắm. Quýnh quá tôi chơi luôn, quay nhanh tay lái nhào vô cái exit, làm xe chao mạnh. Mấy ông ngồi trong xe bị rớt khỏi băng, la trời như bộng. Quang vừa lồm cồm ngồi dậy, vừa cự nự giọng Bắc kỳ.

- Gớm… Ông lái ô tô cáí kiểu gì vậy? Lạng quạng bỏ mẹ!

Có tiếng anh Thạch càu nhàu:

- Kỳ tới đi xe ông tui đội nón bảo hiểm cho chắc ăn.

Thời bấy giờ tiểu bang Colorado rất ít người Việt. Có lần chúng tôi gặp được một đồng hương, chị tên Hương, còn trẻ, lấy chồng Mỹ. Gặp nhau mừng quá, chị bảo “Chỉ nghe các anh nói tiếng Việt thôi là đã thấy thương rồi”. Chị mời chúng tôi đến thăm nông trại của vợ chồng chị ở một làng nhỏ mà tôi quên tên, bên tiểu bang Wyoming giáp ranh với Colorado.

Một ngày cuối tuần đẹp trời, tôi lái chiếc “Boing 747” với 2 pilot phụ và phái đoàn, vượt ranh giới Colorado sang Wyoming thăm chị Hương. Phải lái xe ngoằn nghèo theo mấy con đường núi mất hai ba giờ mới tới.

Wyoming là xứ tuyết, ít dân nhất ở Mỹ. Năm 1975, cả tiểu bang chỉ có hơn 380 ngàn dân. Giữa mùa hè mà có nơi vách tuyết hai bên đường cao tới đầu. Bill, chồng chị Hương, đón chúng tôi tận ngoài đường cái. Muốn vào nông trại phải lội bộ qua một dòng suối nhỏ, nước chảy lấp xấp trong mùa hè khi tuyết tan. Chỉ có xe “four wheel drive” mới qua được suối.

Bill là một cựu quân nhân chiến đấu ở Việt Nam, giải ngũ trở về Mỹ với chiến lợi phẩm là một cô gái quê miền Nam vừa đẹp vừa hiền. Thấy chúng tôi lưỡng lự vì phải cởi giày, xăn quần lội qua suối nước lạnh như cắt da, anh đề nghị cõng từ đứa sang suối. Tôi ôm cổ Bill như con khỉ ôm cột nhà vì Bill cao hơn 6”, nặng trên 250 lb, trong khi tôi gầy đét ốm nhom như cây tre miễu, dù đã ráng uống sữa tẩm bổ cũng chỉ lên được 115 Lb. Tuy Bill hiền từ dễ thương nhưng tôi vẫn thấy đã nư trong bụng khi được anh cõng trên lưng, tự nhủ: “Mi đã biết lỗi nên ông tha cho cái tội chôm chĩa con gái Việt Nam”.

Vợ chồng chị Hương tiếp đãi chúng tôi thật nồng hậu. Wyoming là thiên đàng cho ai thích câu cá. Các dòng suối nước trong vắt nhìn thấy bầy cá Trout lội nhởn nhơ, mấy con cá chép cỏ (grass carp) cả chục pounds, lừ đừ trong các vũng nước đọng. Trên đồi, rau húng lủi, rau hẹ mọc hoang như cỏ dại. Dưới suối, rau xà lách son mọc từng dề xanh rì. Trong lúc chúc tôi mê mẩn câu cá, hái rau, Bill đã chuẩn bị sẵn một con trừu nướng cho bữa ăn trưa. Phái đoàn ăn một bữa hả hê!

Tội nghiệp chị Hương, nước mắt rưng rưng khi chúng tôi từ giã ra về. Chị bảo có lẽ cả năm nữa chị mới có dịp gặp được người đồng hương, mới được nói tiếng Việt! Tiếng Việt mình quí hiếm lắm.

Nơi chị Hương ở nghe nó xa vời như làng Cổ Cò ở xứ Năm Căn ở Đồng Tháp, hoặc làng Timbuktu bên xứ Mali ở Phi Châu. Không biết ngày nay chị có còn sống ở cái làng Timbuktu của chị không? Chắc chị có thêm nhiều bạn đồng hương mới để được nói tiếng Việt và không còn cô đơn nữa?

Biến cố 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra như một cơn ác mộng, làm đảo lộn tất cả đời sống yên bình của những sinh viên du học Mỹ.

Họ mất ăn mất ngủ, nhốn nháo tìm nhau để bàn luận, trao đổi tin tức đã thu nhận được trong ngày. Mỗi tối họ tụ lại, yên lặng ngồi xem tin tức trên TV, nhìn bản đồ Việt Nam bị sơn đỏ theo sự bành trướng của Cộng Sản đang xâm chiếm miền Nam. Họ theo dõi những hình ảnh đau thương đầy máu lửa của cuộc chạy loạn miền Trung tiếp nối là cuộc di tản hãi hùng. Ai cũng sững sờ nhìn nhau mà nước mắt rưng rung. Không biết người Việt Quốc gia đã làm gì nên tội mà họ phải trả bằng một giá quá cao, bằng xương trắng máu đào và nước mắt của hàng triệu sinh linh vô tội mà trong đó có thân nhân gia đình của chúng tôi. Họ thấy bất lực, chỉ biết nhìn nhau ngỡ ngàng khóc không thành tiếng.

Tòa Đại Sứ VNCH đóng cửa, mọi thông tin liên lạc về Việt Nam hoàn toàn bị cắt đứt (và kéo dài 20 năm cho đến ngày 07/11/1995 mới bình thường hóa). Học bổng là nồi gạo của các sinh viên cũng bị chấm dứt.

Các sinh viên có gia đình còn vợ con ở Việt Nam là khổ tâm nhứt. Học hành dang dở, vừa lo kế sinh nhai vừa hoang mang lo lắng cho gia đình ở Việt Nam nên nhiều người không chịu nổi áp lực rơi vào tình trạng trầm cảm. Một số quyết định trở về Việt Nam với bất cứ giá nào, kể cả hy sinh tánh mạng của mình.

Tôi biết có sinh viên quyết tâm trở về qua chuyến tàu Việt Nam Thương Tín khởi hành từ Hawaii mang 1,600 người Việt hồi hương. Chuyến tầu vừa cập bến VN, tất cả đều bị đưa lên xe bít bùng về nơi tập trung, bị lột truồng lục soát, trấn lột. Tiếp theo là nhiều năm tù đầy, ít nhứt là 5 năm. Sau ngày mãn tù họ phải vượt biển lần thứ hai hoặc theo diện HO sang Mỹ trở lại.

Tôi có bạn du học ở Philippinnes trở về bằng tàu thương buôn và anh không bao giờ về đến Việt Nam. Anh bị cướp giết trên tàu rồi vất xác xuống bể.

blank
Tác giả 1975.

Tôi cũng có người bạn là du học sinh bên Pháp trở thành mất trí, lang thang ở các bến tàu và sau cùng bạn bè tìm được xác anh gục chết vì đói lạnh dưới một gầm cầu.

Cũng như các quân cán chính VNCH ở Việt Nam bị bỏ rơi, các sinh viên du học cũng cùng chung số phận, bị bỏ rơi như đàn gà con mất mẹ. Trong lúc Miền nam kêu gào giãy chết, những người Việt Quốc Gia hải ngoại trong đó có đám sinh viên du học như chúng tôi cũng giở khóc giở cười, ngậm ngùi cùng chia sẻ nỗi đau chung.

Đa số sinh viên phải bỏ học đi làm để sống. Một số khác may mắn hơn, được trường nhận làm GRA (Graduate Research Assistant) hoặc GTA (Graduate Teaching Asistant) để được tiếp tục sự học cho đến ngày ra trường. Trong số nhỏ may mắn nầy có ba đứa tôi. Các người bạn khác đều phân tán, không biết bây giờ lưu lạc ở đâu.

Lần lượt có nhiều gia đình người Việt được các nhà thờ Tin Lành bảo trợ dọn đến vùng Fort Collins, và các tỉnh nhỏ lân cận như Greeley, Loveland, Longmont. Khi vừa đến Mỹ ai cũng có tâm trạng ngỡ ngàng lạc lõng nên quí lắm khi gặp được đồng hương. Số người Việt lại quá ít nên tình đồng hương rất là khắng khít đậm đà. Nhiều gia đình thương chúng tôi là những sinh viên cô đơn nên được mời về chơi, được cho ăn đủ các món Việt Nam, không như xưa chúng tôi nấu ăn không có nước mắm. Tôi vẫn còn thấy như mình còn mang một món nợ với gia đình anh chị Sáu Minh với 6 đứa con nhỏ. Anh chị quí mến và đối xử với chúng tôi như người trong nhà. Mấy đứa con không có bạn để chơi, để nói tiếng Việt nên quấn quít bên chúng tôi, thương lắm. Từ khi có anh chị Minh về đây, món gà rôti của anh An trở nên ế ẩm, rồi dẹp tiệm luôn!

Ngày xưa, đi Mỹ du học là giấc mơ vàng son của tuổi trẻ. Sự sụp đổ của Miền Nam đã chôn vùi tương lai của cả một dân tộc, trong đó có những giấc mơ bé nhỏ của bọn sinh viên chúng tôi. Bao nhiêu ước vọng về tương lai, bao nhiêu mộng mơ đã xây dựng đều sụp đổ tan tành thành mây khói.

Trong tình trạng nhiễu nhương lúc bấy giờ, tập trung tư tưởng để tiếp tục học hành không phải là chuyện dễ. Tôi cố gắng học để tốt nghiệp thật nhanh, mong sao sớm xếp lại chương cuối cùng của quá trình học vấn đầy biến cố. Tôi học miệt mài ngày đêm, mệt mỏi, căng thẳng, gần như kiệt quệ.

Ngày ra hội đồng tốt nghiệp, tôi hồi hộp ngồi đợi kết quả của hội đồng giám khảo đang hợp kín. Đây là giây phút quyết định cuộc đời tôi. Nếu thất bại lần nầy, tôi sẽ bỏ cuộc tất cả. Bao nhiêu công sức, tâm huyết đã đầu tư bấy lâu coi như vô dụng. Cho đến nhiều năm sau tôi vần còn bị ám ảnh bởi giây phút nầy. Nếu chẳng may thi rớt…

Tư tưởng vẩn vơ bị cắt đứt, tôi đứng bật dậy khi ông Department Head mở cửa phòng hợp kín đến bắt tay tôi nói: “Congratulations…”

Tôi không cần nghe thêm gì nữa ngoài “Congatulations”, một danh từ nhiệm mầu, mà tôi hằng chờ đợi!

Bao năm học tập miệt mài, bao cố gắng và tâm trí đã đầu tư, tôi chỉ mong đợi được nghe một chữ nầy thôi. Và tôi đã được nghe nó từ miệng của ông Phân Khoa Trưởng.

Như vừa được tháo gỡ gánh nặng nghìn cân, tôi chưa bao giờ có được cái cảm giác lạ lùng vậy, hệt như kẻ sắp chết đuối đã ngoi lên mặt nước kịp thời, trước khi vĩnh viễn chìm sâu dưới đáy biển. Tôi thở ra, như kẻ sống sót, không phụ lòng của bao người thân yêu đã đặt nhiều kỳ vọng vào mình.

Gom góp hành trang, với cái ba lô và thùng sách cũ, tôi lái xe ra đi, bỏ lại tất cả phía sau. Tôi muốn làm một chuyến lãng du, tìm cho tôi nguồn sinh khí mới để thở. Tôi chẳng màng đến chuyện dự lễ ra trường và từ giã bạn bè trước trước khi ra đi. Cũng vì vậy, tôi không có hình đội mũ tốt nghiệp để chưng ở phòng khách! Tôi tốt nghiệp sớm nhất (MS-1976), sau đó là Quí (MS). Anh Hàn An ở lại trường, tiếp tục học cho đến ngày tốt nghiệp Ph. D.

Nhớ hôm nào tôi hí hửng vẫy tay chào giã biệt Việt Nam lên đường đi Mỹđể mưu cầu công danh sự ngiệp. Có ai ngờ cái vẫy tay tạm biệt lại trở thành cái chào vĩnh biệt.

Nhớ thêm lần vẫy tay chào giã biệt thành phố Fort Collins, tôi còn thấy ngậm ngùi. Một mình lái xe, dấn thân vào một con đường mới, đâu biết được con đường ấy sẽ dẫn mình tới đâu?

Rồi sẽ còn bao nhiêu lần nữa tôi phải vẫy tay chào giã biệt trong cuộc sống nầy? Đời là một dòng sông chảy một chiều. Một khi đã ra đi mấy người quay trở lại?

Tôi viết những trang hồi ký nầy năm 2017, khi đã 72 tuổi. Lê Đình Quí 70 và Hàn An 76 tuổi. Hiện tại tôi đã về hưu ở thành phố Garden Grove, cách Santa Ana thành phố Quí ở 15 phút lái xe. Chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Dr. HanAn về hưu ở tiểu bang Idaho. Thỉnh thoảng gia đình anh có đến California thăm chúng tôi. Năm vừa qua (2016) tôi trở lại Fort Collins thăm trường cũ sau 41 năm từ ngày bỏ đi. Trường cũ hoàn toàn thay đổi và tôi chỉ gặp được một người bạn xưa, anh Quang Nguyễn, người duy nhất vẫn còn ở lại nơi đây.

Chú Chín Cali

Ý kiến bạn đọc
13/12/202309:01:19
Khách
Blecharz P, Szatkowski W, Klimek M, Urbanski K <a href=https://ciali.top>buy cialis pills</a> Therefore, if you were stranded on a desert island and needed one drug to treat alcohol withdrawal, IV phenobarbital might be better
27/06/202321:11:52
Khách
However, the hormonal drops that cause hair loss can begin years before menopause is official perimenopause and last long after the change is complete postmenopause <a href=http://atadalafil.mom>buy cialis online</a>
14/03/202310:34:20
Khách
<a href=https://buycialis.boats>cialis dosage</a> Fe Tinic 150 Capsule Uses, Side Effects, and More
22/06/201717:14:35
Khách
Tôi rất cảm kích với những ý kiến xây dựng của đọc giả. Tôi sẽ cặm cụi hơn, cố gắng nhặt hết "các hạt sạn nhỏ" để đọc giả có chén cơm ngon lành. CCCL
21/06/201707:24:23
Khách
Hoàn toàn đồng ý nếu viết không sai chính tả thì rất tốt. Còn sai vài lỗi chính tả hay hỏi-ngã, tôi nghĩ cũng không hề giảm giá trị của các bài viết cho VVNM từ những người viết cho VVNM. Nội dung và cách viết phản ánh cuộc sống thực đi vào lòng người đọc, theo cá nhân tôi là điều quan trọng. Những tác giả không chuyên ở hải ngoại không xài tiếng Việt hàng ngày nên thông cảm nếu viết có sai chính tả chút đỉnh. Các tác giả chuyên nghiệp xuất bản sách đều có Ban Biên Tập của nhà Xuất Bản chỉnh sửa, editing. Người viết cho VVNM cần được khuyến khích dù tiếng Việt có quên đi ít nhiều. Theo tôi, VVNM là diển đàn văn hoá, giải trí và lịch sử thật giá trị cho người Việt hải ngoại, đặc biệt cho thế hệ cha anh ghi lại những kinh nghiệm đã xảy trong các cuộc chiến tranh tàn bạo, những mất mát hy sinh, những lần bỏ quê hương lưu lạc. Nói như thế không có nghĩa người viết không cần quan tâm về cách viết đúng chính tả, cần đọc kỷ khi gửi bài. Đây chỉ là ý kiến thiển cận cá nhân tôi thôi, hoàn toàn không muốn đôi co vào các tranh luận.
20/06/201706:53:30
Khách
Đề tài hay và có ý nghĩa.
Hơi tiếc là khá nhiều lỗi chính tả: dấu hỏi/ngã sai như &quot;mừng rở&quot;, &quot;rực rở&quot; thay vì &quot;rỡ&quot;, &quot;trằng trọc&quot; thay vì &quot;trằn trọc&quot; v.v..
Xin đề nghị tác giả đọc lại bài viết nhiều lần trước khi gởi. Nếu có thể, nhờ bạn bè đọc dùm để sửa lỗi chính tả. Như thế sẽ tránh được những hạt sạn tuy nhỏ nhưng ảnh hưởng đến giá trị của bài viết một cách rất đáng tiếc.
05/06/201723:23:14
Khách
Trời thần ơi , Chú Chín VK đã đạt đạo . Hỉ nộ ái ố buồn vui ...không còn trong tâm tưởng Dzậy mà VB đăng bài là mừng như trúng số . Dzậy là còn mừng, còn vui . Lục dục thất tình còn đấy Chú Chín VK à. Chú Chín à ơi . Nếu VB không đăng thì bần tăng sẽ đăng lên webside của bần tăng đừng có lo nhá. Nhớ lại khi xưa gần 20 năm trước bần tăng điều hành một trang mạng bự tổ chảng có tới 5 tầng . VC wánh dài dài wánh liên tục . Mỗi ngày bần tăng viết ít lắm 1 bài để dợt bọn Ba đình . Mỗi lần bài đưa lên là nó wánh tưng bừng nhiều khi phải đóng cổng trước cả cổng sau . Chúng nó wánh hoài làm mình cũng hao bộn bạc. Nhưng sau nầy vì lý tưởng không còn giống nhau nên bần tăng và vài bạn ra đi . Bây giờ làm một trang nhỏ xíu nhưng đầy đủ tất cả bài vở xưa và nay được lưu trử với giấy phép của các tác giả hẵn hòi . Thì giờ eo hẹp nên lâu lâu tạt qua thấy bài Chú Chín và vài tác giả là đọc ngay . Nếu có chút thì giờ thì chọc quê cho đở buồn đời tỵ nạn . Bần tăng mà là tri kỷ của Chú 9 thì có khối kẻ bất bình . Chú 9 VK có nhiều người ái mộ lắm. Bần tăng đọc sách từ khi mới biết chữ cho đến bây giờ . Kể cả lúc ở tù . Những tác phẩm như truyện ngắn Maxim Gorky, Vở Đất Hoang , Ruồi Trâu , Paven thép đã Tôi lốp ca lốp cốp ... Thích nhất là Con Đường Đau Khổ . Đọc sách của kẻ thù để hiễu về văn hóa Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây của kẻ thù . Ở đây chỉ chọc quê Chú 9 VK và vài tác giả thắng giải chứ bần tăng đã từng dớt những tai to mặt mâm như NXN , sếp xòng ở đây , Vũ Ánh , chủ bút báo Người Việt và chọt một cú trời gíáng vào nhà văn Giao Chỉ ...
Có nhiều người cứ cám ơn VB mãi . Cám ơn một lần đủ rồi , cám ơn hoài khiến người ta bảo ";Biết rồi khổ lắm nói mãi " lại còn bảo rằng đọc chùa không tốn tiền mà còn xạo sự . Trật lất đấy Chú 9 ạ VB cần chú Chín viết bài . VB cũng cần độc giả là bần tăng vào đọc bài , bàn loạn cho xôm trò . Nhiều người đọc thì trang nhà càng mạnh , càng uy tín , quảng cáo càng bạo . Khẳm tiền . Webside mà vắng như chùa Bà Đanh thì ...ai thèm quảng cáo Đó là nguyên tắc . Không ai đọc chùa , viết chùa cả . Người Viết có thể ẩm bạc cả chục ngàn . Chúc Chú 9 VK may mắn .
Chú 9 à, hôm nào rảnh Chú 9 cho anh già 70 du hí VN (du hí chứ không phải khám phá nhá) đi từ Mỹ đáp xuống phi trường Nội Bài làm người Việt teo chim khúm núm mặt la mày lét xong cho vào Hà Lội vào ăn bún mắng cháu chửi . Rồi cho ổng vào lăng thăm bác rồi dở mu ra chào (Bút Tre gieo vần) Ra Hạ Long té xuống biển bị cá lòng tong nó rĩamất sợi lông tài . Cho vào Vũng Áng tấm biển ăn đồ biển . Ghé Huế lắc đò vài đêm đã đời đã điếu .... cuối cùng vào Miền Tây uống rượu đế nghe mấy thôn nữ ca dzọng cổ ngọng cười chết bỏ . Bảo đảm sẽ có nhiều ngườii chết mê chết mệt Chú Chín Chín VK . Hôm nay không chọt mà chỉ tản gẩu đôi điều . Chúc chú Chín sung sức để ẩm giải 10K đô Cố công mài sắt có ngày lên non...tìm động hoa vàng
04/06/201717:24:28
Khách
Bài nào được Việt Báo chọn đăng tôi đều rất mừng như trúng số, và hằng ngày tìm đọc mục "ý kiến của bạn" để tìm cho được hai đọc giả trung thành nhất là N Melbourne và Nguyen Saigon. Một người thì khen đáo để còn một người thì chọc quê thậm tệ. Thiếu một trong hai tôi đều thấy nhớ như nhau. Ở tuổi nầy mình đã sống qua đủ mùi hỉ nộ ái ố, vinh nhục, thăng trầm thì còn xá chi một lời khen chê. Nhưng nếu có người biết đến mình , nghĩ đến mình , đọc bài mình, nhất là viết cho mình, người ấy đã là tri kỷ, quí lắm . Nguyen Melbourne cho tôi động lực để viết không biết mệt. Nguyên Saigon nhắc nhở tôi phải cẩn thận hơn trong khi viết. Tôi xin cám ơn cả hai, cũng như tất cả đọc giả thân thương đã đọc bài của tôi.
03/06/201710:35:42
Khách
Nếu tôi nhớ không lầm, trước 1975 gọi là Nón an toàn hay là Nón bảo hộ. Tên gọi này có thể các độc giả nào khi xưa làm trong nghành quặng mỏ hay công chánh còn nhớ.
03/06/201709:57:02
Khách
Chào Chú Chín Cali, cảm ơn Chú đã mất công tốn sức viết để chia sẻ các kinh nghiệm và suy nghĩ của cá nhân với người đọc gần xa. Truyện chú hay có nhiều người đọc và cho ý kiến thật rôm rả.

Tôi cũng già bây giờ có khi quên nhớ, tiếng Việt không dùng lâu ngày nên viết sai chính tả nát bét, nói còn có khi còn lạng quạng, và tiếng Anh bị mù chữ nặng. Nghĩ thật là buồn cho số phận tha hương đầu hai thứ tóc. Nên ai viết truyện làm thơ được là tôi mến phục.

Các cháu trong nhà đứa nào nói được chút ít tiếng Việt tôi luôn khen ngợi và khuyến khích để các cháu tự tin và tiếp tục xài tiếng Việt. Tôi không có thể viết văn làm thơ nên khi tôi đọc truyện đọc thơ thấy hợp gu thì tôi khen, nhất là đối với các ngòi bút nghiệp dư hải ngoại. Nếu không phải thể loại văn thơ tôi thích, tôi không đọc hết bài. Tôi không dám chê vì tôi tôn trọng sự khác biệt cuả người viết. Tôi nghĩ rằng rất nhiều điều mới mẽ xa lạ mà tôi có thể chưa được trải nghiệm dù tuổi đời tôi không nhỏ. Nhất là khi tôi ‘đọc chùa’ không tốn một xu nên đâu dám chê gì. Chê, người ta nghỉ viết lấy gì mà ‘đọc chay’. Còn nhà văn chuyên nghiệp xuất bản sách, tôi thấy hay thì tôi mua sách họ về để ủng hộ và như lời khen tặng và cảm ơn. Sách không hay thì tôi không đọc hay không mua, và không chê.

Viết văn không dễ. Theo tôi các bài viết của Chú Chín Cali thành công vì giới thiệu những chuyện rất thật trong cuộc sống muôn mặt của đời người. Mỗi người mỗi cảnh, mỗi cảm xúc khác nhau và chú chỉ nói về chú không phê phán chỉ trích lên tiếng đời ai, và luôn mang lại tiếng cười thoải mái hay làm rơi nước mắt hoặc để bùi ngùi suy ngẫm đến một số độc giả. Mong chờ các bài viết tiếp của Chú Chín Cali.

Trân trọng cảm ơn Việt Báo đã khởi xướng và duy trì diễn đàn VVNM đầy giá trị văn hóa và lịch sử suốt 18 năm qua. Quý thay!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,307,212
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.