Hôm nay,  

Chú Mường

10/01/201300:00:00(Xem: 754766)
viet-ve-nuoc-my_190x135Tác giả là một nhà báo, từng trong nhóm chủ biên một số tạp chí, tuần báo trên Dallas, Texas. Sau đây là bài viết Phan mới góp.

Đã mấy buổi chiều, tôi đưa chú Mường đi tìm chỗ ở. Người ta cần một nơi để về, lớn là quê hương thì chú đã mất; nhỏ là một chỗ ngả lưng khi chim về tổ, con người còn cần thêm một bếp lửa gia đình trong cõi u minh, vậy mà cái gì chú cũng không có. Người lính cũ còn bương bả đi tìm một chỗ ở cho vợ chồng già trên xứ người, cứ như cố tình vạch mặt con cháu. Tôi ngại lắm, biết rõ sinh hoạt của gia đình mình không quen có người lạ trong nhà, nên bao năm qua cứ để phòng trống mà không cho ai “share” phòng là vậy. Nhưng đã đến nước này thì cóc đành mở miệng với vợ, “anh muốn nói chú thím về nhà mình ở tạm một thời gian, rồi tính sau…”

Biết vợ con mình quý chú thím lắm nên mới dám nói, nhưng lại phải tánh chú gàn, như người đã ăn cơm lính thì cả đời quý tình trọng nghĩa, còn chuyện phải nhờ vả bất cứ ai cũng lấy làm khó chịu. Chú thím thương con cháu là một chuyện, nhưng bàn đến chuyện ông bà về ở chung với gia đình tôi thì lại thiếu tự nhiên.

Hết cách, tôi đưa chú đi tìm chỗ ở, còn buồn hơn đưa chú về nơi gió cát; bởi đời người ta trước sau cũng chỉ là ở trọ trần gian, ở nán thêm buồn. Nhất là những buổi chiều lơ thơ tóc trắng, chú ngồi căng mắt dò tìm những địa chỉ cho thuê phòng trên tờ báo nhàu nát; cái kính lão gục đầu trước thời đại không còn ai kính lão nữa.

Chiều về treo đèn đường, gió mưa lất phất, đêm xuống quặn lòng, hai chú cháu loanh quanh đi tìm địa chỉ trên những tờ báo mà chú đã đánh dấu. Tôi chẳng thấy đâu là nhà-theo cái nghĩa gia đình, đâu cũng chỉ là một căn phòng lạnh lẽo cho thuê. Nhà cho “share” thường giống nhau ở điểm thiếu tình gia đình. Có nơi chúng tôi đến, tiếng nói cười trong nhà rôm rả, nhưng cái không khí đông người dưng mà không thân, làm cho người ta thêm cô đơn. Không biết tôi có quá nhạy cảm hay không, nhưng khi ngồi chung bàn với năm, ba người cùng share phòng, mọi người vẫn tử tế với nhau vì cùng hoàn cảnh, nhưng khoảng cách không thể nào gần gũi được cũng chính vì cái hoàn cảnh đưa đẩy nhau tới chung một nóc nhà chứ không phải tình máu mủ, hay ít nhất cũng là tình cảm; lòng ngưỡng mộ nhau mà thành quan hệ. Tôi bắt gặp điều đó trong ánh mắt những người đi share phòng-buồn rười rượi…

Tôi đã đi xem chỗ ở với chú mấy buổi chiều vì chú Mường già khụ, mắt mũi kém, không rành đường. Phần chú cũng không quen nói chuyện giá cả, lại sĩ diện nên không muốn nhiều người biết chú thím phải đi thuê phòng để ở. Chú thím giữ chuyện kín bưng, nhưng lòng tôi lại nghĩ ngợi nhiều về tình cảm gia đình có thật sự còn không trong đời sống hôm nay? Không hữu sự không thấy sự vô giá của tình máu mủ; Dường như tôi sợ một ngày nào, những người thân rời xa mình, cuộc sống không làm khó bằng tình cảm bị tổn thương. Tôi càng nghĩ càng thương chú vì hai chú cháu tôi ít nói nhưng hiểu nhau nên mới thân tình.

Tôi lại nghĩ về người thân của chú, nhưng không tiện hỏi vì tôi không thích hỏi ai những câu khó trả lời. Hai chú cháu cứ đi chán thì lại về nhà tôi, hay quán xá bên đường, có ngồi uống cốc bia, ăn chút bữa tối, cũng chẳng ngon lành gì khi trong lòng cứ rối bời sự tuyệt vọng; một giai đoạn lòng người tuyệt vọng với nước mất nhà tan đã xa; tiếp đến là người lính miền nam như chú tuyệt vọng trong nhà tù nhỏ; gia đình, vợ con tuyệt vọng trong nhà tù lớn khi cả nước là một nhà tù vĩ đại. Rồi người vượt biển, vượt biên tuyệt vọng vì không tìm được con đường sống. Khi sinh lộ hé ra bằng ý chí và sự cần mẫn của người Việt thì tuyệt vọng không mất đi mà biến thành vô vọng khi những giá trị văn hoá truyền thống biến thái trên đất tạm dung. Cái giá của tự do lầm tưởng làm xáo trộn văn hoá đông tây...

Buồn nhất là chiều hôm, cả thím cũng đi để quyết định thuê căn phòng mà chú đã xem qua, ưng ý, đã về bàn với thím. Nhìn người thím ốm đau bệnh hoạn còn lặn lội đi thuê một chỗ nằm. sao không phải là một thước-hai thước cho xong một phận người; có phải đỡ tủi thân người đi; đỡ đau lòng kẻ ở. -Ngày mai, con cái của chú thím hay tin quỹ thời gian của cha hay mẹ đã hết. Những người con đang làm việc trong hãng xưởng hay đang vui chơi với con của họ có chạnh lòng vĩnh biệt người cha đã giã từ gác trọ, cuối đời sương gió lẻ loi. Người cha bao năm áo lính bấy năm áo tù, rồi dãi nắng dầm mưa để mưu sinh cho gia đình trong ngục tù bao la khi được thả ra khỏi nhà tù cải tạo. Khi đã lục tuần còn vì tương lai con cháu nên phải bỏ xứ ra đi, hư-thực mấy người đi đúng nghĩa là tỵ nạn chính trị; chỉ biết chú phải bỏ lại cơ hội được chết trên quê hương, vui sướng gì ra đi xuất ngoại khi đã da mồi tóc bạc…

Rồi người mẹ, không lẽ thím có lỗi khi sinh ra những người con? Chỉ biết chắc là thím không bỏ đói con cái; thậm chí nghèo hèn chồng đi tù tội thì thím cũng vẫn cho con đi học. Nhưng nay vì sao chú thím không thể sống chung với con cái? Dòng đời không trả ơn cưu mang; một đoạn đời nuôi con khôn lớn thường được xem như trả nợ cha mẹ đã sinh ra và cưu mang mình. Nước chảy xuôi; lá về cội là vậy. Chuyện đền ơn đáp nghĩa sinh thành, phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già như chuyện duyên phận; phước con cháu của mỗi người như phần ơn trên ban không đều bao giờ. Bởi người trẻ có nỗi khổ tâm khi không làm được những ước muốn cho cha mẹ; người già có nỗi khổ lụy khi không chấp nhận được lối sống, cách sống của người trẻ, tạo nên những xung đột trong gia đình di dân là hình ảnh nơi đâu cũng thấy, chả riêng gì một nhà.

Nhưng phần thiệt thòi cho người lính cũ cứ đeo bám những người chú đã lao đao lận đận cả đời. Khi trẻ thì ngập ngụa chiến tranh, tuổi đời đẹp nhất trong đời người thì chìm đắm trong khói lửa, hận thù của cuộc nội chiến đã xa; khi hoà bình thì tù đày cho thoả sự ngu xuẩn của kẻ thắng; rồi bươn trải trên quê hương nghiệt ngã để sống còn; khi nhìn lại tuổi đời đã xanh rêu thì lại thêm một lần bỏ xứ ra đi vì tương lai con cháu. Bươn bả trên xứ người tối mặt đến nhắm mắt xuôi tay, hết một đời người sinh ra cùng nghịch cảnh là thân phận người lính Việt Nam Cộng Hoà. Nếu con cháu hiểu được để chầp nhận cha mẹ lính cũ thì đời sống bớt muộn phiền hơn những khó khăn đời sống ở hải ngoại. Nhưng bản chất của đời sống là nghiệt ngã, lòng người là ích kỷ. Sự nhỏ nhen của lòng người, lòng vị kỷ đã giết chết người thím trong uất ức, giận hờn, không lâu sau khi chú thím dọn ra ở riêng nơi nhà trọ.

Thím đi khá đột ngột, bất ngờ, trong thương tiếc của người quen; nhưng kẻ biết vì sao vẫn lặng thinh - đó lại chính là con cái của chú thím. Còn nỗi đau nào cay đắng hơn trong lòng người lính già vẫn đi về gác trọ từ hôm đưa vợ về bên kia thế giới.

Sáng nay trong căn phòng vắng lặng, tôi ngồi soạn lại mớ sách báo trên kệ, mớ hình ảnh trong computer đã hết sức chứa, phải bỏ bớt,… nhìn lại hình ảnh tang lễ của thím, tôi thấy chú vẫn lặng lẽ đậu xe, xách túi thức ăn sẵn mua ngoài hàng quán, tra chìa khoá vào cửa căn gác trọ, bước vào căn phòng đã vĩnh viễn không còn thím chờ đợi. Chú bày thức ăn ra, thắp nén hương mời người bạn đời đã yêu thương lính trận, nuôi dạy con cái cho chú, nuôi tù cải tạo khi chú gãy súng tháng tư… lòng dạ nào chú ăn nổi nữa, nên chỉ uống ly vang, -ly nào giải thoát người lính già, khi cảnh sát báo tin, “cha của ông (bà) đã qua đời tối hôm qua, hôm kia, nơi gác trọ…” Cuộc sống của những người con vẫn tiếp diễn sau vài ngày bận rộn, phải nghỉ việc vì tang lễ.

Đời người sao buồn quá, nhất là những người lính cũ, cô đơn tới hơi thở cuối cùng.

Có lẽ nên để chú đọc khi chú chưa uống ly cuối cùng, ít nhất cũng tránh được lầm lỡ xưa cũ là sống không cho ăn chết làm văn tế ruồi; đời nay, cha mẹ còn không lo, hồi thẳng cẳng thì lục tìm bảo hiểm nhân thọ để ở đâu?

Phan

Ý kiến bạn đọc
19/01/201303:05:25
Khách
Người có lòng như PHAN nhìn thấy những chú Mường cô đơn trên nước Mỹ rồi ray rứt xót xa;thế cũng hay vì ngối đây mà nghĩ dến muôn vàn những chú Mường khác cũng sống thầm lặng quạnh hiu mà còn đói cơm rách áo ngay chính trên quê hương của mình thì còn thảm thiết đến đâu nữa!

Kiếp nhân sinh phù thế là vậy thôi ...Nếu mình có đức tin ,mình sẽ thấy được phần nào nguồn an ủi...thế thôi !

12/01/201318:06:42
Khách
Theo tui nghĩ chúng ta phải cần tính mình, đừng hy vọng đầu tư vào ai cả, như con mèo đây, sống như diễn viên Hongcong, chỉ biết lo cho mình ngon lành thôi hehe, tự túc độc lập là mình thương mình đó.
12/01/201307:08:24
Khách
Hay và cảm động
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,860,773
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã. Từ nhiều năm qua, ông là thành viên ban tuyển chọn chung kết như ng vẫn tiếp tục vui vẻ góp bài mới.
Tác Giả viết bài nầy thay cho những ai lần đầu tiên được làm mẹ, hoặc sắp làm mẹ, muốn gởi gắm đến cho đứa con yêu quí. Tuy hoàn cảnh hoặc hành sử có thể khác nhau nhưng tình mẫu tử thiêng liêng không khác biệt. Tác giả quê quán ở Bến Tre, sang Mỹ năm 1973. Ông gia nhập chương trình VVNM do Việt Báo tổ chức từ năm 2015, nhận được giải danh dự năm 2016, và giải Á Khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Hiện Tác Giả đã về hưu và đang định cư ở Orange County.
Tác giả đã qua tuổi bát tuần, hiện là cư dân Bắc California, Trước 30 tháng Tư 1975, ông là công chức chính ngạch của VNCH. Saigon đổi đời, cuối tháng Mười 1977, vượt biên tới Thái Lan. Định cư tại Vùng Vịnh San Francisco, Calif, từ ngày 9 tháng Một 1978. Ông đã dự Viết Về Nước Mỹ từ 2010, với bài viết kể chuyện tổ chức vượt biển và nuôi dạy các con thành người hữu dụng trên đất Mỹ. Sau đây là bài viết mới để tạ ơn tự do, thương phế binh Việt Mỹ, và đặc biệt, Tạ ơn Đức Thánh Trần.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả cùng 2 con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Năm 2017, lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Bài viết mới của bà là chuyện mùa Giáng Sinh.
Tác giả hiện là cư dân Arkansas, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Bà tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016, và luôn cho thấy sức viết mạnh mẽ và cách viết đơn giản mà chân thành, xúc động. Bài mới nhất, tác giả viết về Lễ Tạ Ơn đang tới.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 27 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục góp bài mới. Bài mới nhất là chuyện mùa giáng sinh
Trước Tháng Tư 1975, tác giả là một Hải Quân Trung Uý VNCH, rồi thành cựu tù cải tạo, tự lái tầu vượt biển, định cư tại Úc. Với nhiều bài viết sống động, trong đó có “Làm Thế Nào Để Chôn Hai Chế Độ,” kể chuyện được cô bí thư 12 tuổi đảng bảo lãnh ra khỏi trại cải tạo Vườn Đào, ông là tác giả vào danh sách Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2015. Sau đây là bài viết mới nhất..
Tác giả sinh năm 1944, định cư ở Mỹ năm 1979, sống ở California 25 năm với nghề điêu khắc gỗ. Một số tượng điêu khắc gỗ cỡ lớn hiện đang toạ lạc trên đường phố và nơi công cộng của các thành phố Seaside, Monterey, và Los Gatos tại California là công trình của ông Tú.
Nhạc sĩ Cung Tiến