Hôm nay,  

Chuyện Mùa Giáng Sinh: Anh Tôi

24/12/201200:00:00(Xem: 305610)
viet-ve-nuoc-my_190x135Trước 1975, tác giả là một nhà thơ quân đội, sĩ quan hải quân, từng tu nghiệp tại Mỹ. Sau năm 1975, ông trở thành người tù chính trị và định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O. Ông đã tham dự Viết Về Nước Mỹ ngay từ năm đầu tiên và hai lần nhân giải, 2001 và 2012.

Sáng chủ nhật, trong lúc tôi chuẩn bị Thánh Kinh để lên xe đi nhà thờ thì có tiếng chuông điện thoại reo lên. Áp máy vào tai, sao chỉ nghe tiếng rì rì của làn sóng, không có hơi hám nào từ đầu dây phía kia.

- Ai đó? Tôi đây, tôi nghe đây. Nói đi! Ai gọi mà im lặng vậy?

Bỗng có tiếng nấc vang lên, sau đó có tiếng khóc, nức nở, kéo dài.

- Ba con mất rồi chú ơi! Hu...hu hu...

- Hả? Cháu Dung hả? Anh hai mất lúc nào? Lúc nào...

Điện thoại cắt ngang. Làn sóng rì rì nổi lên. Tôi gào to trong máy. Gào đến khan cổ họng. Đầu dây bên kia vẫn nín thinh. Tôi cảm thấy choáng váng, vội buông mình xuống chiếc ghế cạnh bên. Vậy là hai anh em dắt dìu nhau qua đây theo diện HO, bây giờ chỉ còn tôi trơ trọi.

Hôm nay trời u ám. Mây xám phủ xuống các cụm núi. Sương mù bay dọc theo xa lộ, là đà chắn ngang đầu xe, mịt mù một cách buồn bã. Từ Escondido, tôi phải xuống xa lộ 15, rồi tách ra 163, rồi vòng qua 8 west mới đến khu nursing home - nơi anh hai tôi nằm đó, trong những ngày tháng cuối đời.

Lối vào nursing home hẹp. Chỉ có khoảng xi-măng kéo dài, vừa một người đi, đâm thẳng vào cửa chính. Tôi rối bời ruột gan, cố vượt qua đoàn xe lăn đang xếp hàng ngang dọc trên các hành lang. Những người già, những người bệnh...ngồi ngả nghiêng trên đó. Có người gục mặt xuống bụng. Có ngưởi ngoẹo cổ qua bên vai. Có người ôm đầu rên rỉ. Có người run tay chân, nước miếng chảy lòng thòng hai mép. Có người giương đôi mắt trừng trừng nhìn từng bước chân tôi tiến lên. Ôi! Tất cả đều tội nghiệp, làm lòng tôi se lại, xót thương biết bao!

Các cháu tôi đã có mặt từ đầu. Tất cả vây quanh chiếc giường, sụt sùi nước mắt. Chị hai tôi bắt ghế ngồi kế bên thi hài, khóc than, kể lể đủ điều. Anh hai tôi nằm dài như ngủ. Tấm drap trắng đắp ngang tới cổ. Đôi mắt khép lại một cách êm đềm. Khuôn mặt bình thản, an lạc. Tôi đứng khoanh tay yên lặng, không nói nên lời. Có lẽ những cảm xúc đua nhau dồn dập, khiến tôi trơ ra như bức tượng.

Lái xe trở về. Escondido chìm trong màn đêm. Từ nhà quàn East County Mortuary, tôi phải qua highway 67, rồi 52, mới quẹo qua 15 về nhà. Đoạn 52 dài trên 15 dặm, chạy xuyên qua những dãy núi chìm trong bóng đen dày đặc. Ánh sáng duy nhất là hai ngọn đèn xe phía trước, cứ thế soi thấu đêm tối, đi tới. Trong nỗi cô đơn và buồn đau vô hạn, những kỷ niệm về anh hai chợt hiện về trong trí.

Khu kinh tế mới khô cằn. Rừng cao su bạt ngàn, cách thị trấn Bến Cát khoảng một tiếng đồng hồ đạp xe. Anh chị và 12 đứa cháu lam lũ nơi đó. Chị bị bắt đi trước, sau khi quân bắc phương đẩy ngược anh tôi vô trại tù. Mãn tù , anh không biết về đâu, đành chạy lên khu kinh tế mới xum họp gia đình. Mùa nắng cạo mủ cao su. Mùa mưa, phá đất, trồng thêm cây mới. Những năm đầu tiên, quân bắc phương phát lương thực. Bữa ăn chính lúc nào cũng là khoai mì. Hàng tuần có thêm vài lon gạo mốc lộn với bông cỏ. Những năm sau, quân bắc phương bỏ mặc dân kinh tế mới, sau khi nhét vào tai họ khẩu hiệu: tự túc tự cường. Nơi chó ăn đá gà ăn muối cũng không có, làm sao tự túc nổi, nói chi tới tự cường? Đói quá, dân phải lần lượt kéo nhau về quê hoặc tìm xứ khác để nuôi thân. 12 đứa con gánh nặng, anh chị tôi không biết gánh đi đâu, đành lợi dụng cảnh nhà trống vườn hoang (người ta bỏ đi) mà cố sức bám trụ. Anh thay các con lao động để các con có thì giờ đi học, có cơ hội tiếp xúc với xã hội, tìm cách thoát khỏi kiếp sống thấp hèn.

Có lẽ khi khổ đau tới mức tột cùng, trái tim con người chợt se lại, trí óc bỗng mở ra đón nhận một đức tin. Anh tôi bắt đầu tin Chúa từ đó, theo sự dẫn dắt của một vị truyền đạo bản xứ. Có đức tin, có lối thoát cho cuộc sống, anh phấn khởi vươn lên bằng cách đưa gia đình rời vùng kinh tế mới về tạm cư ở Trung Chánh (Hóc Môn).

Nơi đây, anh bôn ba xin việc làm cho từng đứa con: đứa may, đứa thêu, đứa dệt, đứa làm hãng, đứa đạp xích lô... Đứa lớn nuôi đứa nhỏ. Đứa nhỏ đùm bọc đứa nhỏ hơn. Cả nhà lao vào công việc. Lấy đức tin Chúa làm nghị lực. Lấy sự siêng năng, cần kiệm làm phương châm. Còn anh và chị ngày ngày cỡi trên chiếc xe đạp, đi khắp nơi rao giảng lời Chúa cho mọi người.

Khi diện HO mở rộng, các tù nhân chính trị được người Mỹ đón nhận. Gia đình anh tôi hân hoan đến Mỹ với niềm vui tràn ngập tâm hồn. Các Hội Thánh khắp nơi giang trọn vòng tay nhân ái giúp đỡ con cái Chúa. Anh tôi nhận thấy đây là xứ sở tự do, xứ sở của cơ hội, của đức tin - anh liền gửi các con vào viện Thần Học. Những đứa yếu hơn thì học nghề, học college... Anh mở rộng hội thánh tư gia, dẫn dắt hàng trăm người về với Chúa. Mùa Giáng Sinh, anh cùng các con tổ chức những bữa ăn cho người nghèo, người vô gia cư.

Thời gian trôi nhanh, chẳng mấy chốc ba đứa con của anh tốt nghiệp Thần Học. Cả ba cháu đều trở thành Mục Sư, quản nhiệm hội thánh ở các tiểu bang khác. Những cháu học nghề thì ra làm chủ Shop, đời sống càng ngày càng thăng tiến. Rồi một hôm, trong lúc cầu nguyện, anh tôi bỗng ngã lăn, bất tỉnh. Khi đến bệnh viện, cả nhà mới biết anh bị stroke và bác sĩ còn khám phá ra anh bị chứng tiểu đường giai đoạn trầm trọng. Từ đó sức khỏe anh yếu đi, không còn đi đứng được nữa.

Gần 10 năm nằm trên giường bệnh, chị hai tôi luôn kề cận bên anh. Chị đút cho anh từng muỗng thức ăn, thay từng tấm tã, rửa ráy cho anh hàng ngày. Mỗi lần đỡ anh ngồi dậy hoặc đưa lên xe lăn, chị tôi phải dùng sức rất nặng nhọc. Chị cũng không ngớt an ủi anh bằng những nụ hôn nồng nàn của người vợ thủy chung. Những người bạn đến thăm thấy chị vất vả quá, nên bàn đưa anh tôi vào nursing home. Chị lắc đầu từ chối, rồi ôm người bạn đời vào lòng, như sợ người khác bắt đi.

Rồi một hôm, có lẽ quá lo toan, chị bị stroke, bại một bên, phải vào nằm bệnh viện. Anh tôi ở nhà ngóng trông từng ngày, thương nhớ từng đêm, và sau đó... không thiết tới ăn uống nữa. Các cháu thay phiên nhau chăm sóc, nhưng làm sao bằng bàn tay dịu dàng của người vợ hiền. Cuối cùng anh ngã xuống, lâm trọng bệnh.

Tôi đến bệnh viện Sharp thăm anh chị vào những ngày cuối tuần. Phòng anh nằm rộng rãi, cửa kính ngó xuống xa lộ 163 hắt hiu nắng chiều. Anh nằm im lặng. Đôi mắt vẫn mở thao láo nhìn từng người thân. Bác sĩ thọc hai ống cao su vào mũi anh, dẫn thẳng xuống dạ dày để đưa thức ăn cho anh. Hệ thống thực quản bị rối loạn, họng không còn nuốt được. Chị hai nằm ở lầu trên. Chị khỏe nhiều, nhưng vẫn đi chưa được, phải có người dìu từng bước. Mỗi ngày, bệnh viện cử y tá đến tập chị đi. Tập xong, chị nhờ người đưa chị xuống phòng anh hai và kề cận bên anh cho tới khuya. Nhìn hai anh chị quấn quít với nhau trong tuổi già và bệnh tật, tôi thấy cảm động quá. Nước mắt rơi xuống mặt tôi hồi nào, không hay.

Lần cuối, tôi đến thăm anh ở Nursing Home vùng Sports Arena. Anh được chuyển đến đây sau khi bác sĩ giải phẫu đưa ống cao su từ bụng vào thẳng dạ dày đễ dẫn thức ăn trực tiếp đến đó. Lúc này, sức khoẻ anh suy yếu nhiều. Rồi đến một sáng chúa nhật, anh thiếp đi, trút linh hồn một cách nhẹ nhàng.

Xông pha trên chiến trường, gian khổ trong trại tù và lao nhọc nơi vùng kinh tế mới. Trải qua từng bi kịch đau thương như vậy, anh tôi vẫn mỉm cười chấp nhận, luôn tha thứ cho những kẻ đày ải cuộc đời mình. Anh chỉ hướng lòng về Chúa, sống trong sạch, và sẵn sàng hy sinh vì đạo nghĩa. Bao giờ anh cũng nhắc về nước Mỹ và vô cùng biết ơn, vì đã mở rộng vòng tay nhân ái đón tiếp gia đình anh lánh nạn. Các con anh vẫn thường bảo nhau, nếu không có medicare, nếu không có các bàn tay của bác sĩ Mỹ và nếu ở Việt Nam - chắc chắn ba con đã mất từ lâu rồi.

Mùa Giáng Sinh năm nay, tôi đã mất đi một người anh. Tôi cảm thấy trơ trọi và buồn nhớ vô cùng. Tôi muốn trở lại những con đường, những nơi chốn, những kỷ niệm... mà dấu chân anh và tôi đã từng dẫm qua. Tôi muốn sống lại thời ấu thơ, thời có anh luôn bên cạnh, bảo vệ và chiều chuộng em mình.

Trần gian bây giờ mất anh. Nhưng chắc chắn trên thiên đàng, Chúa đang tiếp rước thêm một đứa con đang xum họp với Ngài. Những dòng nước mắt khóc than hôm nay...sẽ là những dòng nước mắt bồi hồi mừng vui, đưa tiễn một linh hồn về với Chúa.

Phạm Hồng Ân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,405,432
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách "Xin Em Tấm Hình". Bài mới nhất của tác giả là một du ký về Prague, trước đây là thủ đô Tiệp Khắc, nay thuộc cộng hòa Czech. Đây là nơi có khu thương mại Việt lớn nhất Âu châu.
Tác giả là một kỹ sư công chánh, cư dân Torrance, California, đã góp bài Viết Về Nước Mỹ từ năm 2002. Ông cũng đã xuất bản một số du ký như: “Á Châu Quyến Rũ”, tập 1 & 2 và “Đi Cruise Bắc Mỹ” hiện có bán tại các nhà sách trong vùng Little Saigon. Bài viết mới của tác giả là một du ký kể về chuyến du lịch Thụy Sĩ trên tuyến xe điện kỳ thú có tên Bernina Express.
Tác giả là một cây bút nữ, cư dân San Jose, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sang năm thứ 18 của giải thưởng, Lê Nguyễn Hằng nhận thêm giải Vinh Danh Tác Giả, với bài viết về “Ba Thế Hệ Tuổi Dậu” và bài “Từ Độ Mang Ơn”, kể chuyện tác giả bay đến thăm đôi bạn Mỹ bảo trợ tại vùng vịnh Tillamook, Oregon.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016, bài viết thứ tư của ông là chuyện tình của một người... trúng số.
Tác giả là một huynh trưởng Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu tiên, nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001. Từ nhiều năm qua, ông là thành viên ban tuyển chọn chung kết. Sách đã xuất bản: Chuyện Miền Thôn Dã.
Tác giả tên thật là Trương Nguyên Thuận, tuổi 60', cựu sĩ quan không quân VNCH, di tản sang Mỹ từ 1975, kỹ sư điện toán, từng làm việc với Hewlett Packard/ Houston... rồi mở lò dạy võ tại Houston. Ông đã góp nhiều bài viết đặc biệt và nhận giải danh dự Viết Về Nước Mỹ 2004. Sau nhiều năm ngưng viết, ông vừa trở lại với sức viết mạnh mẽ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Ông tên thật Nguyễn Đức Tâm, sinh năm 1951 tại Quảng Trị, tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa Huế năm 1974, vượt biển đến Mỹ năm 1980. Làm chủ nhà hàng từ 1983 đến 2004, hiện đang làm địa ốc và thông dịch bán thời gian và là cư dân West Chester, PA.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2017 và đã nhận giải đặc biệt năm thứ mười tám. Bà cho biết bút hiệu là tên thật, trước là nhà giáo tại Việt Nam, định cư tại New Jersey năm 1994 theo diện HO. Sau đây là bài viết mới của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Theo bài viết, tại Việt Nam cô học đại học tổng hợp ngoại ngữ. Mười ba năm trước, sau khi kết hôn với một nhạc sĩ Mỹ, cô theo chồng về Sonoma County, vùng đất nổi tiếng với vượu vang của Napa Valley. Hiện nay, gia đình đã dọn về San Diego và tác giả đang làm công việc thông dịch viên chính thức của Tòa Án Liên Bang. Mong Quynh Gibney tiếp tục viết.
Nhạc sĩ Cung Tiến