Hôm nay,  

Định Mệnh

13/09/201200:00:00(Xem: 160425)
Đây là bài đầu tiên của một tác giả người Mỹ trực tiếp viết văn bằng Việt ngữ. Email kèm bài viết được ông xưng danh là “Steve Brown tức là Sáu.” Ông chính là “người Mỹ yêu tiếng Việt” mà tác giả Donna Nguyễn đã kể trong bài “Việt Bút, Việt Báo và Chú Sáu.” Mới đây, khi nhắc tới tài làm thơ Việt của ông, Khôi An viết: “Tôi gọi ông là chú Sáu thay vì Mr. Steve Brown. Chú Sáu đã từng đóng quân ở Việt Nam, nơi đó chú đã gặp thím Sáu.” Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Chú Sáu kể chuyện tình 40 năm trước giữa chàng thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ và một cô gái Việt.

Hình ảnh Ảnh cũ, Biên Hoà 1973, do tác giả ghi chú.
vietnam_2011_005
Tuyết mặc áo dài ngày đám cưới.
vietnam_2011_003
Hình này chụp tại nhà gia đình Tuyết sau khi đám cưới xong.
europe_2010__tuyet__090
Ông Bà Brown, Âu Châu 2010.
Khi tôi khoảng 10 tuổi tin tức trong truyện hình bắt đầu nói đến chiến tranh Việt Nam thường xuyên. Trong suốt mấy năm trưởng thành tôi theo dõi cũng nhiều. Khi tôi học trung học tôi tìm trong thư viện một cuốn sách tên là Địa Ngục Tại Một Chỗ Nhỏ (Hell In A Very Small Place) về chiến trường Điện Biên Phủ. Tôi mượn sách đó mang về nhà đọc. Sách này giúp tôi hiểu một số về lịch sử Việt Nam. Đến lớp 12 tôi ghi tên vô Thủy Quân Lục Chiến. Mười ngày sau khi tốt nghiệp trung học, tôi lên đường đi huấn luyện.

Mùa xuân năm 1972 tôi đóng quân ở Nhật Bản rồi đơn vị tôi được lịnh qua Việt Nam. Sau khi đóng quân ở Biên Hoà khoảng chừng năm tháng tôi làm quen với một cô gái Việt Nam tên là Tuyết. Chắc điều đầu tiên là tôi thấy em ấy đẹp với một nụ cười rất dễ thương. Chúng tôi hay hẹn gặp nhau tại cổng căn cứ quân sự. Tuyết thường mang theo những món ăn Việt Nam ngon cho chúng tôi ăn chung. Tôi rất thích nghe em kể truyện cổ Việt Nam chẳng hạn như Hòn vọng Phu, Lâm Sanh Xuân Nương, Sự Tích Hoa Trinh Nữ, vân vân.

Hồi đó, khi lực lượng quân địch pháo vô căn cứ thì nhiều khi đạn hỏa tiễn trúng vô thành phố Biên Hòa. Có lần một gia đình 10 người bị giết hết, rất gần nơi gia đình Tuyết ở. Khi nào có những tấn công như thế cả hai chúng tôi lo cho nhau thật nhiều. Phải chờ đợi đến khi gặp lại nhau mới biết mọi sự được bình an.

Hẹn tao ngộ tại cổng hai
Trước giờ có hỏa tiễn bay vô vùng
Nhà cửa bị cháy lung tung
Hỏa châu soi sáng bập bùng gần xa
Chờ giờ gặp lại cô ta
Có hay không, số phận ta định rồi
Ước ao nghe được một lời
Nàng qua cơn bão, cuộc đời bình an

Mấy tháng sau khi gặp nhau thì chúng tôi đính hôn, dù rằng trong lúc đó vì tình hình chiến tranh chúng tôi không chắc lắm về tương lai.

Cuối tháng một năm 1973, sau khi hiệp định Ba Lê có hiệu lực, đơn vị tôi phải ra khỏi Việt Nam đi qua Nhật Bản. Qua các điều kiện ký kết trong hiệp định tôi không tin rằng chiến tranh thật sự kết thúc. Đến ngày tôi phải ra đi chúng tôi gặp nhau tại cổng của căn cứ lần cuối cùng. Thật ra tôi không biết là sẽ gặp lại Tuyết hay không nên việc chia tay vô cùng khó khăn. Chúng tôi nhìn nhau lần cuối, rồi tôi phải ra đi. Thật là buồn!

Khi đến Nhật Bản tôi nghe tin tức nói chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục làm tôi càng thấy buồn. Ở bên đó không có cách gì liên lạc với nhau. Thời gian qua rất chậm. Cũng trong lúc đóng quân ở đó tôi mới biết được là đầu tháng Ba tôi sẽ được ra khỏi quân đội. Mấy ngày sau, tôi lên máy bay đi về quê hương tại tiểu bang Vermont.

Khi về đến nhà, tôi thấy một số lá thư của Tuyết gởi mà Tuyết đã nhờ ai đã dịch ra tiếng Anh. Khi đọc những gì Tuyết viết thì tôi rất mừng. Sau đó một ông luật sư ở Việt Nam gởi các giấy tờ giải thích các thủ tục để đem người hôn thê tôi đến nước Mỹ. Tôi thấy các thủ tục này rất phức tạp, chắc lâu lắm mới xong. Cùng lúc đó tôi nghe tin tức nói có đánh nhau lớn gần Biên Hòa nên tôi lo lắm. Trong khoảng thời gian đó Tuyết có đến Sài Gòn để gọi điện thoại cho tôi một vài lần. Nhưng lúc đó gọi đi nước ngoài mắc quá chừng nên chúng tôi chỉ được nói chuyện khoảng 10 phút thôi.

Sáu đó tôi nghĩ đến hoàn cảnh bên Việt Nam mong manh như thế nào, nên tôi quyết định trở qua Việt Nam. Tôi lấy sổ thông hành và xin giấy chiếu khán Việt Nam. Rồi chúng tôi định gặp nhau ở tại một chỗ dễ tìm ở Sài Gòn vì tôi không biết nhà Tuyết ở đâu. Tôi chỉ biết họ ở Biên Hòa mà thôi. Trước kia khi đóng quân ở Việt Nam thì tôi chưa có cơ hội đến Sài Gòn lần nào. Theo vé máy bay, tôi đến Sài-gòn ngày 28 tháng 3 nhưng vì giấy chiếu khán đến trễ nên tôi phải đổi vé máy bay. Chẳng may tôi không có cách nào cho Tuyết biết chuyến bay tôi đã thay đổi!

Nhưng tôi vẫn đi.

Sau bao nhiêu chuyến bay trôi qua rất chậm, tôi thấy vùng duyên hải Việt Nam. Bỗng dưng tôi có cảm giác rất lạ vì tôi không ngờ là mình sẽ trở lại khu chiến tranh sớm như thế (khoảng chừng hai tháng sau khi tôi ra khỏi Việt Nam lần đầu tiên).

Máy bay hạ xuống tại phi trường Tân Sơn Nhất, tôi tới ngay chỗ chúng tôi đã đồng ý gặp nhau. Nhưng đó là ngày một tháng Tư rồi (tức là đã bốn ngày trễ). Tôi không thấy Tuyết đâu hết. Tôi hỏi những người xung quanh chỗ đó nhưng không ai nhìn ra Tuyết qua tấm hình mà tôi mang theo cả. Chết cha! Bây giờ tôi nên làm gì?

Giấy chiếu khán chỉ cho phép ở lại Việt Nam được ba ngày thôi. Nếu không tìm được Tuyết trong vòng ba ngày thì tôi phải ra khỏi Việt Nam. Tôi chỉ có đủ tiền đi Việt Nam một lần mà thôi. Tôi bước ra bên đường kêu xe tắc-xi. Tài xế tắc-xi nói là sẽ tìm nhà qua địa chỉ trên phong bì được. Lúc đó tôi chưa quen phong tục trả giá nên ông ta ra giá đầu tiên (20 Mỹ kim) là tôi đồng ý liền. Sau đó tôi mới biết gía đó cao gấp 6 lần giá bình thường. Rồi tôi lên xe của ông ấy mà đi đến Biên Hòa. Ông tài xế đến chợ Biên Hòa mà hỏi một số người về địa chỉ gia đình Tuyết nhưng không ai biết hết. Sau đó chúng tôi đi ra quốc lộ 1B hỏi nữa mà vẫn không có kết qủa.

Cuối cùng tôi trả tiền mà xuống xe gần Cảnh Sát Cuộc phía trước căn cứ Biên Hòa. Rồi tôi bắt đầu đi về hướng ngã ba vườn mít. Khi gặp bất cứ ai bên đường, tôi đều đưa họ coi hình gia đình Tuyết. Nhưng vẫn không ai biết hết. Lúc đó tôi chưa biết nói tiếng Việt nên không hỏi gì được cả.

Rồi thình lình một chiếc xe ghé vô, ông lái xe kêu tôi lên xe đi. Tôi không biết ông ấy là ai mà cũng không biết lý do tại sao ông ấy kêu tôi lên xe. Khi tôi đưa tấm hình ra, ông ta coi rồi gật đầu liền. Chúng tôi đi không bao xa rồi xe quẹo vô một đường hẻm. Ông ấy chỉ tôi thấy một phụ nữ mặc đồ bình dân đứng phía trước xe. Bỗng dưng tôi nhìn ra Tuyết đang đứng đó, trông em đẹp như "trăng mươi sáu". Tôi xuống xe liền. Thế là chúng tôi được gặp lại nhau. Cả hai chúng tôi cùng mừng quá! Tuyết nói là đã chờ đợi ở Sài Gòn ba ngày rồi mà không biết lý do tại sao tôi không đến. Còn ông tài xế là người quen của gia đình.

Sau khi chúng tôi nói chuyện được mấy phút thì đi bộ tiếp sâu vào đường hẻm qua đường ray xe lửa mà đến nhà gia đình em ấy. Tuyết giới thiệu ba của em và những người thân khác trong nhà. Tôi thấy nhà em đông người lắm. Trong nhà có phòng khách và phòng ăn ở bên dưới, ở trên có hai phòng ngủ nhưng phải leo lên cầu thang. Trong phòng vệ sinh thì không có gì hết. Chỉ có một lỗ đổ thông vào con mương dưới nhà mà thôi. Ở ngoài có cái giếng và đó cũng là chỗ tắm nữa. Nói chung đó là một ngôi nhà rất đơn sơ. Đối với tôi thì đó không phải là vấn đề vì gia đình tôi bên Mỹ cũng tương đối nghèo. Nhưng có một điều khác mà tôi không quen thuộc. Trong nhà có 24 người vì một số người đang trốn chiến tranh mà đến đó tạm ở. Như vậy thì chật lắm.

Những người trong gia đình đối xử tôi tốt lắm nhưng chẳng may là không được nói chuyện với nhau. Lúc đó tôi cũng chưa được hiểu phong tục tập quán Việt Nam như thế nào nên cũng có nhiều điều thắc mắc. Trong lúc tôi ở lại với gia đình vợ tôi có một người đàn ông đến nói chuyện thường xuyên. Anh ấy cũng quê tỉnh Bình Định như gia đình vợ tôi. Hơn 20 năm sau chúng tôi mới biết anh ấy là Việt Cộng nằm vùng.

Vì tình hình chiến tranh lúc đó chúng tôi không được đi chơi ở đâu hết. Chúng tôi có bàn luận về chuyến đi tuần trăng mật ở tại Đà Lạt nhưng người anh của Tuyết khuyên bảo là không nên vì nguy hiểm. Như thế thì chúng tôi chỉ ở nhà và thỉnh thoảng đi lên Sài-gòn làm giấy tờ cho Tuyết. Lúc đó tôi đã xin được loại giấy chiếu khán vô hạn nên được phép ở lại Việt Nam bao lâu cũng được.

Ngày 10 tháng Tư năm 1973 chúng tôi làm đám cưới theo phong tục Việt Nam. Phong tục Việt Nam rất khác với phong tục Mỹ nên tôi có nhiều điều thắc mắc. Mùa xuân năm đó tôi ở Việt Nam được sáu tuần lễ rồi chúng tôi đi về Mỹ. Việc từ giã gia đình Tuyết rất khó khăn. Khi em nói là chúng tôi sắp đi Mỹ thì tất cả mọi người trong gia đình buồn lắm, và họ khóc. Sau đó tôi mới biết theo phong tục người Việt Nam thì gia đình là qúi trọng hơn hết.

Theo tôi nghĩ chuyện chúng tôi được thành vợ chồng là định mệnh. Năm nay chúng tôi đã lấy nhau được 39 năm rồi.

Nhớ cách đây hơn bốn thập niên
Bước về quê vợ lần đầu tiên
Thời gian ảnh hưởng toàn đời sống
Nhưng chuyện chúng mình không thể quên

Chú Sáu Steve Brown

Ý kiến bạn đọc
17/09/201206:21:03
Khách
Cảm ơn Nam Lê, Người Việt yêu tiếng Việt :) ,và cháu Khôi An. Có công mài sắt, có ngày nên kim. Nhưng vấn đề là chưa biết khi nào ngày đó sẽ đến.
16/09/201220:40:19
Khách
Người Mỹ nếu không qua lớp huấn luyện tiếng Việt chuyên nghiệp nào mà viết tiếng Việt như vậy thì phải cho 6 stars
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 834,267,343
Từ hôm nay, Thứ Hai 1 tháng Bảy 2019, bắt đầu phổ biến các bài Viết Về Nước Mỹ năm thứ Hai Mươi Mốt (XXI). Xin mời đọc bài viết mới nhất của Lê Nguyễn Hằng, một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Từ hôm nay, Thứ Hai 1 tháng Bảy 2019, bắt đầu phổ biến các bài Viết Về Nước Mỹ năm thứ Hai Mươi Mốt (XXI). Xin mời đọc bài viết mới nhất của Lê Nguyễn Hằng, một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài đăng 2 kỳ.
Giải Viết Về Nước Mỹ hàng năm gồm các bài phổ biến từ ngày 1 tháng Bẩy năm trước tới 30 tháng Sáu năm sau. Hôm nay, Chủ Nhật 30 tháng Sáu 2019, ngày khóa sổ Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20, xin mời đọc bài viết vui của Ngọc Hạnh, vị tác giả niên trưởng trong năm. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Hai 2019, khi tuổi đã kề ngưỡng cửu tuần (90. ) Với bài viết về Washington D,C. mùa lễ chiến sĩ trận vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh, trước 1975 đã là giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Saigon. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, và hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Kính chúc Bà vui khỏe.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh hoặc tài liệu do ông thực hiện hoặc sưu tập. Sống động, cũng chẳng ngại sống sượng, bài viết của ông thường gây nhiều chú ý và bàn cãi. Một số đã được in thành sách "Xin Em Tấm Hình" và tập truyện mới, "Bắc Kỳ". Sau đây, thêm một bài mới viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79. Đi học lại gần 6 năm mới ra trường với bằng BS engineer năm 85. Hiện là cư dân ở Lafayette, Louisiana, còn vài năm nữa sẽ ... ăn tiền gìa. Bút hiệu Pha Lê, theo chú giải vui của tác giả, không phải là trong veo như Pha Lê, mà là... Pha trò và Lê la! Sau đây là bài viết thứ sáu của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm bài viết mới của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth Uni-versity. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là một viên chức hưu trí tại San Jose, đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Tháng Năm 2019, trong bài “Tôi Làm Răng Implant” tác giả có viết lời cám ơn Bác sĩ Nha Khoa Nguyễn Hoàng Tuấn về sự tận tâm giảng giải và chăm sóc dành cho bà. Sau đây là bài viết mới nhất của bà, chuyện người thật việc thật. Tựa đề là một câu trong bài hát “Như Đã Dấu Yêu” của Nhạc Sĩ Đức Huy.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ từ 2001 và liên tục góp bài. Sau nhiều năm tham gia ban tuyển chọn, từ 2018, Trương Ngọc Bảo Xuân là Trưởng Ban Tuyển Chọn Viết Về Nước Mỹ. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019.