Hôm nay,  

Huấn Luyện Sĩ Quan Tại Hoa Kỳ

08/04/201100:00:00(Xem: 155227)
Huấn Luyện Sĩ Quan Tại Hoa Kỳ

Tác giả: Lô Thơm
Bài số 3160-28460 vb6040811

Theo bài viết, tác giả tình nguyện đi khóa 25 Sĩ Quan Thủ Đức, sau đó sang Mỹ thụ huấn sĩ quan và là một trong 18 học viên VN được gắn lon Thiếu Uý tại quân trường Fort Benning ở tiểu bang Geogia. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của Lô Thơm được chuyển đến bằng điện thư. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm và vui lòng bổ túc địa chỉ liên lạc và sơ lược tiểu sử.

***

Nhớ lại những ngày tháng ấy, tôi có cảm giác như là một giấc mơ xa vời. Những hình ảnh quân trường Fort Benning với tiếng hét “Sư Tử Hống” của các huấn luyện viên… hình như phát xuất từ một chốn nào không thực.
Đầu năm 1967, tuy được miễn dịch vĩnh viễn vì là con út trong một gia đình mà tất cả các anh đều đang đi lính, bản thân và đang làm Kế Toán cho một công ty tư, có lương khá cao, nhưng tôi vẫn có cảm giác bất an. Hầu như ngày nào cũng đọc tin chiến sự đẫm máu, nhất là những tin Việt Cộng pháo kích vào nhà dân, chặt đầu viên chức, đắp mô, giật mìn xe đò, tôi tự thấy như mình đang phạm tội gì đó, nếu mình cứ nhàn hạ, trong khi mọi thanh niên đang hy sinh tính mạng cho mình an hưởng.
Sau một thời gian suy nghĩ, tôi lẳng lặng đến Biệt Khu Thủ Đô, tình nguyện đi khóa 25 Sĩ Quan Thủ Đức, không cho gia đình hay, vì nếu mẹ tôi biết, thế nào bà cũng khóc và ngăn cản. Ngày tôi lên đường, chỉ có hai thằng bạn thân ra tiễn. Mãi sau khi tôi đã thụ huấn được vài tuần, tôi mới báo cho mẹ và anh lên thăm. Y như tôi tiên liệu, bà cụ khóc mãi, nhưng mọi chuyện đã an bài.
Sau gần 6 tháng huấn luyện ở Thủ Đức, nghe tin có tuyển sinh viên sĩ quan theo học Fort Benning bên Mỹ, tôi lại ghi tên tình nguyện thi thử. Ngày đầu thi, có tới hơn 400 mạng, nhưng rồi rớt dần theo 3 kỳ thi tiếng Anh ở trường Sinh Ngữ Quân Đội, còn lại đúng 40 tên, được tập trung vào một Trung Đội đặc biệt có một ông Đại Úy Mỹ, Captain Isler, làm xếp chúa! Ông này hành hạ tụi tôi khủng khiếp, suốt ngày chạy liên tu bất tận, hễ nghỉ thì hít đất, nhẩy xổm, mỗi lần tối thiểu 50 cái. Đêm đang ngủ, ông dựng cổ dậy, bắt móc chân lên giường trên, tay chống xuống đất, nghe ông “chửi” te tua. Rồi làm tạp dịch như điên. Riêng vụ quần áo là khốn nạn nhất. Hễ ông nhìn thấy cái đường vạt áo chạy xuống mà không thẳng với đường chỉ của cái “phẹc mơ tuya” là bỏ mạng! Giầy thì phải đánh cho láng đến nỗi mà ông nhìn xuống mũi giầy của mình, thấy cái mặt ổng thì mới tha. Nếu không thì đời thiệt là vất vả…
Một tháng sau, khi một số chịu không nổi đã xin ra, hoặc bị ổng đuổi ra khỏi trung đội, còn lại đúng 18 thằng, trong đó chỉ có 10 tên là sinh viên sĩ quan thuần túy, còn 8 mạng kia là Trung Sĩ Thông Dịch ở ngoài đơn vị gửi về. Tất cả lên máy bay, bay một lèo qua San Antonio, Texas, học thêm 6 tháng Anh Ngữ ở trường Sinh Ngữ Quốc Phòng (Defense Language Institute), rồi mới chuyển qua Fort Benning ở tiểu bang Geogia. Tại đây, mới chính thức là đời một Sinh Viên Sĩ Quan Hoa Kỳ, đắng cay, gian khổ như “ở trong địa ngục” (Live in Hell), theo câu châm ngôn của mấy thằng cay cú.
Nói “ở trong địa ngục” cũng không có gì là ngoa. Vì hồi đó, đúng vào lúc chiến tranh khốc liệt nhất, lính Mỹ chết như ngả rạ, nên quân trường chủ trương phải tập luyện tối đa cho những sĩ quan ra trường tại đây quen với một mặt trận khủng khiếp mà sinh mạng lính tráng rẻ như bèo. Phút trước còn đùa cợt, phút sau đã nhăn răng. Người Mỹ vốn quen với các trận Công Kiên Chiến, dùng hỏa lực tối đa trong trận chiến Triều Tiên, nay gặp chiến tranh du kích, gặp muỗi, mòng, vắt, rắn, khí hậu khắc nghiệt, hầm chông, súng ngựa trời… thì chới với. Cho nên tại quân trường như Fort Benning gồm toàn lính trừ bị, đa số bất mãn, nếu không khép vào kỷ luật của địa ngục thì có thể.. thua đau.

*12 tuần Huấn Nhục
Ngày đầu tiên, khi vừa bước vào cổng trường, còn đang mặc áo bốn túi le lói của Sinh Viên Sĩ Quan Việt Nam, tụi tôi đã gặp ngay một màn chào đón rất ớn lạnh. Ông Thượng Sĩ già đứng chận ngay lối thang lên lầu, gào lên như Sư Tử Hống:
-Ê! Mấy thằng cứt đái kia! Nghe tao cho rõ, thằng nào vào đây mà còn mang ý tưởng là Con Người thì khốn nạn. Chúng bay chỉ là lũ chó đẻ, vừa câm vừa điếc, đồ đầu lừa! Chúng mày phải quên đi thân phận con người thì mới sống sót được. Tao nói thật đấy. Trời vật chúng mày đi! Lũ chúng mày có nghe rõ không" Nghe rõ thì phải gào lên: Thưa Ngài, con nghe rõ!
(Hey! You, shit! Listen to me! Anyone who still thinks that he is a man will be miserable! You’re only son of bitches, dumb, deaf, cripple, donkey heads! You must forget that you’re once men to survive here. I tell you the truth! God damn you! Do you hear me" If you do, say “Sir, yes, Sir!”
Lũ chúng tôi gào lên:
-Thưa Ngài, vâng, thưa Ngài!
Ông già lấy tay che tai:
-Trời vật chúng mày! Tao không nghe rõ!
Tụi tôi lại phải gào lên vỡ phổi cho đến khi ổng hài lòng thì mới bắt đầu một chầu dợt sơ sơ:
-Tao cho tụi bây 30 giây phải mang hết đồ đạc của mình chạy lên tới lầu 3 rồi chạy xuống đây, tao đứng chờ, đứa nào chạy chậm thì phải chạy lại.
Thật khốn khổ. Tụi tôi đang mặc áo bốn túi, dây biểu chương lủng lẳng, giầy láng, mà phải ôm hai, ba cái vali của mình chạy thục mạng lên tới lầu 3, va đụng lung tung, văng đồ, rớt mũ, rồi thục mạng chạy xuống. Tới trước mặt ông già, còn đang thở hổn hển, ổng chả thèm nhìn mặt thằng nào, lại phán:
-Tụi bay chậm quá! Làm lại!
Thế là lại tung chân chạy lên… lần thứ hai, rồi thứ ba đến khi thằng nào cũng ngất ngư con tầu đi, quần áo sút tung ra hết, vali bung ra, lăn lóc mỗi chỗ mỗi thứ, có thằng nằm vật xuống cầu thang, miệng xùi bọt mép... lúc ấy ổng mới cho ngưng.
Tụi tôi lếch thếch đi kiếm phòng, cứ hai thằng một phòng, Việt Nam không được nằm chung với nhau, nghĩa là phân tán với các sinh viên Mỹ. Tất cả đồ đạc cá nhân mang theo, cả quân phục Thủ Đức, phải chất đống trong một nhà kho, không được đụng tới và lãnh nhận quân trang quân dụng của Mỹ. Lúc đó, mới có mấy Sinh viên đàn anh tới chỉ dẫn cho chỗ ngủ. Một phòng có hai giường sắt ở hai bên, hai cái tủ đựng quần áo, hai cái bàn để đối diện nhau và sát nhau ở giữa, hai cái ghế, trên bàn có hai cái đèn nhỏ. Ngày đầu tiên chỉ có thế, các huynh trưởng tử tế lắm, hướng dẫn cách ngồi, cách đứng, cách nằm ngủ, cách đi vào phòng... Ôi chao! Dễ ợt!
Sáng hôm sau, đang mơ màng, bỗng nghe tiếng gào khủng khiếp ở cửa:
-Dậy! Dậy! Mấy con lừa ngu độn! Bà vật chúng mày!
Tôi tung chăn ra, vừa kịp cho chân xuống giường, đứng lên, thì một huynh trưởng phóng tới, dí sát mặt hắn vào mặt tôi, cách không tới một ngón tay, gào hét:
-Mày là thằng chó chết! Có biết tao là ai không"
Tôi đứng nghiêm, cũng gào lên:
-Thưa Ngài, con biết ngài là huynh trưởng!
Ông kia gầm hét:
-Ai cho mày trả lời, hả thằng khốn nạn! Mày phải biết thưa gửi, và phải xin phép nói mới được nói, biết chưa"
Tôi “dạ, thưa Ngài!”
Ổng gầm lên nữa, nước bọt văng tung tóe vào mặt tôi:
-Mày không được nói khơi khơi như vậy! Phải “Thưa Ngài, Sinh Viên sĩ Quan tên “chó đẻ” gì đó, xin phép Ngài cho con được nói.” Biết chưa!
-Dạ, vâng!
Ông huynh trưởng trợn mắt lên:
-Tao vừa nói với mày ra sao" Nói lại: Thưa Ngài, SVSQ tên chó đẻ gì đó, xin phép Ngài cho con được nói” Khi nào tao cho phép mới được nói, biết chưa!
Rút kinh nghiệm rồi, tôi vội vã gào lên:
-Thưa Ngài, SVSQ X. xin phép Ngài cho con nói! (Sir, Officer Candidate X. request permission to speak!)
Ông kia hài lòng:
-Được! Lần sau, mỗi khi mở miệng phải nói như vậy, biết chưa!
-Thưa Ngài, SVSQ X. biết rồi!
Ông gật đầu:
-Ngồi xuống đi!
Tôi vội vã ngồi xuống bàn. Chợt, ổng đập bàn cái “ầm”:
-Ai cho phép mày ngồi.
Tôi ngơ ngác:
-Thưa Ngài, Ngài vừa bảo con ngồi!
Ổng lắc đầu:
-Không được! Phải la to: Thưa Ngài, SVSQ X. xin phép Ngài cho con ngồi!
Tôi gào lớn:
-Thưa Ngài, SVSQ X. xin phép Ngài cho con ngồi!
-Ừ, ngồi đi!
Lúc ấy, tôi mới ké né ngồi xuống, tim đập loạn lên, không biết Ngài còn trò gì nữa đây. Ông chỉ tay cho tôi thấy miếng cạc-tông để trên mặt bàn và hỏi tôi biết miếng bìa này làm cái gì không"
Cũng theo phép tắc cũ, tôi phải gào to lên, xin phép Ngài rồi mới trả lời là “không biết”. Ngài huynh trưởng từ từ nói:
-Miếng này là để làm cái gương cho mày soi. Mày phải đánh xi ra cho nó sáng lên, để soi mặt thay gương!
Nghe qua, tôi tưởng cha này nói giỡn. Mẹ kiếp! Miếng bìa mà bảo đánh cho bóng lên để soi mặt thì.. mụ nội hắn làm cũng không được! Tôi vâng dạ rồi nghe lời hắn chỉ bảo, và cũng cố làm, tới đâu hay tới đó. Không dè lời dậy bảo của ổng là thực. Chiều về, ổng trở lại thấy cái miếng bìa vẫn là miếng bìa chỉ sáng lên một chút, ổng lôi tôi ra, chạy hai vòng sân, vừa chạy vừa nhẩy xổm, đến lúc hai cái đầu gối muốn rơi ra, tôi ngã lăn ra cỏ, ông mới tha. Từ đó, tôi làm chăm chỉ hơn, nhưng mỗi ngày vẫn bị phạt vì cái bìa chưa là tấm gương! Cho đến tuần sau đó, khi mà ổng cúi xuống nhìn vào tấm bìa, thấy cái bản mặt của ổng hiện ra, tôi mới hết bị bò. Đó mới chỉ là tấm bìa! Còn quần áo luôn phải cứng nhu tấm phản. Cái búp nịt đồng phải sáng đến nỗi ông huynh trưởng nhìn vào thấy cái nụ cười ác hiểm của ổng thì mới không bị phạt chạy với súng trên đầu! Hai cái mũi giầy cũng là hai cái gương khác nữa. Nhiều ông chơi ác, đôi giầy người ta đánh gần chết mới sáng được nhiêu đó, ổng không chịu, dùng đế giầy của mình là di di lên mũi giầy của mấy tên khốn khổ, thế là chết cửa tứ! Bị phạt bởi ông này, hay ông khác, cứ ông này vừa tha, ông khác nhẩy vô, ăn có, phạt tiếp. Mỗi đại đội khóa sinh có một đại đội huynh trưởng hành hạ, nên không thể có một ngày bình yên.
Phòng ngủ còn kinh hoàng hơn. Không đứa nào dám ngủ thật sự. Cứ đợi đến sau 10 giờ, khi ông huynh trưởng đi tuần qua khỏi là nhào xuống đất, một thằng can-me, một thằng đánh bóng sàn nhà! Chùi làm sao cho mặt sàn cũng bóng lên như gương để mấy ổng nhìn thấy mặt ổng sáng rỡ thì mới không bị phạt. Phương pháp chùi không đơn giản. Đầu tiên, lấy một miếng vài trắng thật sạch, một ly nước thật sạch, một hộp “wax” đánh bóng cũng thật sạch, nếu chỉ có một hột cát trong đó là tiêu đời, đánh một trăm năm cũng không sáng, vì có cát, thì cứ đánh đến đâu, nó lại cào đi đến đấy! Cho nên mọi thứ phải thật sạch. Nằm bò ra, dùng khăn nhúng vào nước, nhúng vào “wax”, quấn vào ngón tay trỏ và giữa, chà xát tại một điểm nhỏ bằng cái đầu ngón tay mà thôi, đánh theo vòng tròn (đánh theo hàng ngang, hàng dọc đều thất bại), cho đến khi nào cái khoảng đầu ngón tay ấy sáng hẳn lên, bấy giờ mới đánh lan ra bên cạnh khoảng một đầu ngón tay nữa… Cứ thế, từng ngón tay, từng ngón tay sẽ thành một bàn tay, rồi hàng ngàn, vạn cái bàn tay ấy qua bao nhiêu ngày mới xong được cái nền nhà! Khốn khổ như thế chả đứa nào dám bước chân lên! Đi học về, là bám lấy cái thanh ngang của cửa ra vào mà đu lên, dùng một bàn chân chạm vào nóc cái tủ quần áo, bàn chân kia với tới cái đầu giường, rồi tung mình vào giường, chân không chạm đất! Vào giường rồi là rón rén cởi giầy ra, để nhẹ xuống sàn, rồi ngồi vào bàn mà học bài, cho đến khi đi ăn hoặc đi ngủ, ra vào cũng theo kiểu Tắc Dăng đu cửa. Vậy mà mấy ổng chơi ác. Đợi đánh bóng rồi, nếu thích hành thằng nào thì đợi khi nó đi học, ổng bước vào lấy giầy của ông di qua di lại… tan nát đời hoa! Tên nào về phòng, thấy nền nhà bị di di, thì đứng gục đầu vào cửa mà khóc như nghe tin cha chết! Lại mất mấy tuần mất ngủ và sáng hôm sau, sẽ mất phần ăn sáng!
Mỗi sáng, đi ăn điểm tâm phải có sức. Xếp hàng dọc đi vào nhà ăn, phải qua một loạt huynh trưởng đứng nhìn chằm chằm từng thằng xem có thằng nào dớn dác, liếc qua liếc lại là túm lấy, hành chơi! Đi phải thẳng lưng, thẳng mắt, thẳng tay. Nghe thấy chuyện gì tức cười cũng phải tỉnh bơ, lỡ dại mà liếc xéo một cái là đời tàn, vài chục cái hít đất, thì khỏi ăn sáng luôn! Nếu không có gì xẩy ra, cũng phải đi qua một cái thanh ngang để kéo tay (pull up). Mỗi thằng phải kéo 20 cái, mỗi cái phải gào lớn: “Một, thưa Ngài”, “Hai, thưa Ngài”, “Ba…” (One, Sir; two, Sir…) Nếu đang kéo mà rớt xuống thì phải bù lại bằng 50 hít đất. Thằng nào làm không được thì khỏi ăn! Hít đất cũng không đơn giản. Có một ông kẹ đứng cầm cái thắt lưng của mình mà nhúng lên, nhúng xuống, không thể ăn gian! Một lần lên cũng phải gào to: “Một, thưa Ngài”, “Hai, thưa Ngài…”
Làm đủ bổn phận bắp thịt rồi thì được xếp hàng vào lãnh thức ăn. Đồ ăn thì ê hề, nhưng có thằng nào ăn hết! Khi bưng đĩa cơm ra, tìm bàn, mà thấy có ông huynh trưởng ngồi sẵn rồi, thì phải gào lớn:
-Thưa Ngài, SVSQ X, xin phép Ngài cho ngồi!
Ngài cho ngồi, mới được ngồi. Không nghe nói gì, thì phải hiểu là “cút xéo!”, đi kiếm chỗ khác! Mà bàn nào cũng có một Ngài ngồi chờ để hành đàn em, tránh sao cho khỏi số! Ngồi được rồi, thi sắp xếp thức ăn cho thật ngay ngắn. Con dao phải để xéo góc và trên góc cái khay. Cái thìa, nĩa, thì để song song với khay. Ngồi thật thẳng lưng, hai bàn tay để trên đùi, thằng nào gù gù là bỏ ăn đó. Xong thế ngồi, thì phải gào lên: “Thưa Ngài, SVSQ X. xin phép cho ăn!” Ngài gật đầu, cho phép ăn, mới được ăn, nếu không phải chờ. Khi ăn, thì tay trái cầm nĩa, tay phải cầm dao, cắt miếng thịt xong, để dao xuống, đổi tay, cầm nĩa chọc vào miếng thịt, giơ thẳng từ dưới lên tới ngang mồm, thì quẹo một cái đưa thẳng vào mồm. Mồm cũng không được mở ra khi nhai. Đứa nào nhai mà mở mồm là đời khốn nạn. Hai, ba huynh trưởng sẽ chồm tới:
-Kìa! Thằng này nó ăn như lợn ấy! Nghe nó nhai kìa! Chẳng khác gì con heo. Cút ra ngoài kia! Làm cho tao 50 cái hít đất rồi vào ăn tiếp!
Lập tức phải đứng dậy, kéo ghế đàng hoàng rồi chạy ra ngoài, bơm lấy bơm để, vừa trở vào phòng, chợt nghe tiếng hét: “Hết giờ ăn! Cút!” Thế là xong một bữa!
Chưa kể hôm nào đó, huynh trưởng nổi hứng, chỉ đại một thằng:
-Ê! Thằng kia! Mày biết làm trò khỉ không" Nhẩy lên bàn, làm trò khỉ tao xem!
Thế là vội vã phải đứng lên bàn, nhẩy múa loi choi cho quan Ngài coi đến chừng nào Ngài cho ăn tiếp thì ăn. Bằng không thì… than ôi!
Các Ngài thích hành đàn em khi đang ăn. Có Ngài chìa ra một quả ớt, hỏi đàn em:
-Cái này là cái gì đây"
-Dạ, thưa Ngài, đó là quả ớt!
Ngài lắc đầu:
-Không phải ớt. Chuối đó! Không tin tao hả" Ăn thử đi thì biết!
Dĩ nhiên là phải ăn….và cấm khóc!
Những trò hành hạ này làm cho sinh viên oán trời, hận đất không thể tả. Trong thời gian tôi còn học ở đó, tại đại đội bên cạnh, có một anh xui, không kịp oán trời thì chết lăn. Anh ta đang ăn, bị đuổi ra ngoài, bắt chạy một vòng sân vận động, đúng một dặm. Chạy được nửa đường, thì lăn ra chết ngắc! Từ đó, không còn hình phạt bắt chạy đang khi ăn nữa, nhưng những trò khác thì vẫn tiếp tục. Đàn em vẫn phải ngồi cứng người như pho tượng mặc cho huynh trưởng hành như điên. Ngu nhất là những tên đàn em có tính thích xem chuyện xẩy ra bên cạnh, chỉ liếc một cái sang là đời tàn, vì liếc bị gọi là “eye ball”, mắt quả banh, 50 cái hít đất là nhẹ.
Ăn đã vậy, đi lại thì sao"
Trong 12 tuần lễ đầu huấn nhục, đi qua đi lại cũng là một cực hình. Các huynh trưởng chia nhau ra đứng đầy hành lang. Muốn đi qua Ngài, phải ngừng lại, đứng dính sát vào tường, hai tay xuôi xuống, mắt nhìn thẳng, miệng gào lên:
-Thưa Ngài, SVSQ X. xin phép cho đi qua!
Nếu Ngài thích thì cho qua, nếu không thì Ngài cứ đứng đó chơi, giả tảng như không nghe thấy gì cho mình gào đã đời mới tửng tửng: “Qua đi!” Trường hợp Ngài buồn tình thì đứng dạng chân ra, bảo mình chui xuống dưới và bò, thì cũng phải bò. Nếu Ngài thích chơi thì Ngài bảo cởi hết quần áo ra, trần truồng rồi mới bò. Có lần, một huynh trưởng đứng điểm danh giữa sân, trước khi đi học, tẩn mẩn nhìn thấy tên đàn em đang đứng đọc báo cáo, mặc cái áo không chỉnh, nghĩa là đường tà áo không ngay với đường cửa quần, Ngài bắt đàn em cởi truồng ra, đứng chân không, vừa tồng ngồng vừa đọc báo cáo, trông tếu không chịu được, nhưng bố bảo thằng nào dám cười…
Cũng trong 12 tuần lễ này, cái khổ nhất là phải chạy liên tu bất tận, chạy từ nhà đến lớp, chạy lên lầu xuống thang, chạy ra nhà tắm, chạy đi lượm rác… chạy riết đến nỗi hai đầu gối muốn long ra. Tên nào chạy dở, thì đến tối phải bị phạt. Hình phạt ở đây cũng quái đản. Hình phạt thứ nhất là vác súng đi cơ bản thao diễn một tiếng đồng hồ. Bị phạt như thế thì hai cánh tay muốn gẫy rời, vì cứ bước một bước lại tung súng lên (cây M.14 nặng gần 5 ký lô), bắt lấy, đưa lên vai, rồi lập tức lại tung súng ra, bắt chào kính, rồi tung trở lên, cho vào vai. Tất cả các cử động đó phải được làm trong khi hai chân vẫn đều bước thẳng! Hình phạt thứ hai là móc chân vào cửa sổ chống tay xuống.. đá! Vì chỗ phạt đó không có cỏ, chỉ có đá dăm miếng cứng như dao, hể lè phè để rớt “bộp” cái đầu gối xuống đó là chẩy máu te tua…Hình phạt thứ ba là đo chu vi của doanh trại. Cứ khom người xuống, dùng gang tay đo sát dưới chân tường, đo hết vòng của doanh trại thì đo ngược lại! Thứ tư là xoay cà rem! Tay trái cầm lỗ tai, tay phải chống lên cái nón sắt, chạy vòng chung quanh cái nón sắt .. hai mươi lần. Thực tế, chưa thấy đứa nào quay nổi 15, 16 lần mà không loạng choạng té nhào vì chóng mặt! Hít đất là chuyện nhỏ! Tuần lễ đầu thì 20, tuần sau tăng lên thành 50, tuần thứ mười thì phải 100.


Một lần, lúc đang xếp hàng chờ đi học, tôi vừa xì xào với tay đứng bên, thì bị tay Thiếu Úy cán bộ người Đức hay Áo gì đó, bắt gặp, hắn nhẩy đến hét vào mặt tôi:
-Cái thằng này! Tao chán mấy cái thằng Việt Nam nhà mày lắm rồi! Nằm xuống! Bơm cho tao 100 cái coi! (Hey! Guy! I am tired of your Vietnamese already! Get down! Do for me 100 push-ups!)
Nghe cái giọng miệt thị người Việt của hắn, tôi tự dưng nổi cơn giận. Tôi nằm xuống làm luôn một hơi… “ninety, sir… a hundred, sir… hundred and one… two.. three… ten….” Sau đó thi hết pin, tôi cứ nằm chống tay và lấy hơi, thỉnh thoảng làm tiếp. Đến giờ phải đi học, tay Thiếu Úy kia gọi tôi ầm lên:
-Đứng dậy! Đi học!
Tôi cứ tỉnh bơ, đếm tiếp… Gọi 2,3 lần không thấy tôi đứng lên, hắn bắt đầu sốt ruột, phải nhờ một tay cán bộ khác dẫn đại đội di chuyển. Một Sĩ quan cán bộ khác tiến lại, hỏi tôi:
-Sao mày cứ nằm hoài thế" Bộ muốn làm cho chết sao"
Tôi lẩm bẩm:
-Tôi sẽ bơm đến khi kiệt lực chết thì thôi. Ai bảo ông ta dám nói xấu dân tộc của tôi"
-Cái gì" Ai nói cái gì đụng đến dân mày"
Tôi nói trong cái giọng hết pin, cho hắn biết là tay Thiếu Úy kia miệt thị dân Việt của tôi, vì thế tôi sẽ hít đất cho đến chết để hắn phải sợ. Tay cán bộ này thấy tôi lì quá, cũng ngán, chạy vào kêu ông Đại Úy Đại Đội Trưởng ra. Ông kia đến, quỳ xuống bên tôi, hỏi tôi muốn gì thì mới chịu đứng lên. Tôi thều thào, bảo tay kia phải xin lỗi tôi, tôi mới chịu. Thế là ông Đại Đội Trưởng quay lại bắt tên Thiếu Úy kia phải xin lỗi tôi. Bất đắc dĩ, hắn phải quỳ xuống, gằn giọng:
-Tao xin lỗi mày! Tao nói ẩu! Được chưa"
Lúc đó tôi mới lê lết chống tay ngồi dậy, và vì choáng váng, tôi lại vật xuống. Mấy tên kia sợ quá, vội đỡ tôi dậy, rồi cho phép tôi được tàn tàn đi bộ đến lớp, không phải chạy như mọi lần.
Tôi đi tàn tàn đến lớp. Mấy thằng cùng đội với tôi nể tôi ra mặt làm tôi khoái chí tử.
Thực ra, sự kỳ thị vẫn xẩy ra nhiều lần, hoặc giữa cán bộ với sinh viên, hoặc ngay giữa sinh viên với nhau. Nhóm Việt chúng tôi thường nhịn cho qua. Đến tuần lễ thứ 16, chính mình lên huynh trưởng, mới trả thù hả hê.
Sau ngày tôi lên huynh trưởng, một buổi sáng thứ hai mà chúng tôi gọi là Blue Monday, chúng tôi dậy từ 3 giờ sáng, mặc quần áo tề chỉnh, lẳng lặng sang đại đội đàn em, đứng trước cửa phòng tên nào vô phúc đó, chờ đúng 4 giờ là nhẩy vào phòng, gào hét như điên. “Dậy, dậy, mấy thằng khốn nạn này!...” Hai thằng đàn em của tôi mập tròn như con trâu, đang ngủ, dụi mắt chưa xong bị tôi gào ầm lên đi tắm! Chúng nó bò dưới hai chân tôi vào phòng tắm. Tôi mở nước lạnh ra xối vào người nó. Tên này run cầm cập, kêu lên chí chóe: “Thưa Ngài, lạnh quá!” Tôi cười, hỏi: “Lạnh hả" Rồi, có nước nóng tới liền”. Nói xong, tôi bật nguyên vòi nước nóng vào lưng nó khiến nó nhẩy lên choi choi, kêu “nóng quá!” tơi bời. Tôi cứ thế, hết nóng lại lạnh, làm cho đến khi nó gần xỉu mới thôi.
Sau đó, tôi bắt 10 thằng cũng trần truồng như nhộng vào khiêng hòm cá nhân ra ngoài hành lang, ngồi xổm lên đó, và giả bộ chèo xuồng, trong khi phải hát bài của Cướp Biển “Ho! Ho! Ho! Có 5 tên đàn ông, một thằng thì què, thằng kia thì đui…Chúng tao đi với cây súng trên tay…(There are five men, one is crippled, another is blind. Ho! Ho! Ho!...).
Làm cướp biển chán, tôi bắt chúng làm đám cưới. Một thằng mặc đồ Adam khoác tay một thằng làm Eva, đi giữa hành lang. Hai bên tường là 10 thằng khác cũng mặc đồ Adam như vây, giơ cao tay làm cái tán cho cô dâu chú rể đi qua đi lại, và hát bài “Ave Maria….” Không tên nào dám cười. Chỉ có một tên liếc qua liếc lại, tôi bảo vào phòng, lấy kem đánh răng ra, tôi xịt khắp người nó trắng bóc, rồi bắt nó đi xuống thang, cho huynh trưởng khác phạt chơi! Huynh trưởng là chúa tể rừng xanh mà! Tụi tôi chơi vậy mà cũng không ác bằng một tên khác, lúc 4 giờ sáng, nhiệt độ bên ngoài là khoảng 20 độ F, mặt sông đóng băng, vậy mà nó bắt nguyên một trung đội đàn em, mang súng và ba lô nhẩy tùm xuống nước đá, làm cho hầu hết bị cảm lạnh gần chết! Thiệt là ác hơn.. .tôi!

2. Huấn luyện thể lực
Những màn huấn nhục này đến tuần thứ 12 thì hết. Nhưng trước khi đó, sinh viên phải qua một màn thử thách thể lực ác liệt: chạy 12 dặm, tương đương gần 20 cây số với đủ 30 “pounds” vũ khí và quân dụng! Mới đầu, ra khỏi trại, các đội ngũ chạy đều, đếm nhịp 1,2,3,4 … và hát “Viet Nam á a à a, Viet Nam á a à a. Khi tôi ngủ, bọn Vixi lẻn vào chặt đầu…” (When I sleep, VC comes to chop my head..á a à a…) Những bài hát đều được dựng lên trên cuộc chiến Việt Nam, mới nghe thì ghê rợn, nhưng sau quen dần. Có lẽ đó cũng là mục đích của các cuộc huấn luyện cho Sĩ quan Mỹ quen đi, khỏi sợ!
Sau khi chạy chừng vài dặm, bắt đầu.. rã ngũ! Kẻ thì chạy chậm lại, kẻ thì rớt đài, lết bết đàng sau. Các sĩ quan huấn luyện đi xe díp theo sau, chửi bới om xòm:
-Chạy đi! Chạy mau lên! Đồ con rùa! Đồ ngu! Đổ chó chết! Đồ cứt đái!
Lũ chúng tôi ráng hết hơi tàn, chạy lệt xệt, nhưng đến khoảng 10 dặm rồi thì tan hoang như một bãi chiến trường. Kẻ thì gục bên đường, người thì đứng thở hổn hển, đa số bò lê bò càng (tôi cũng ở trong số đó), vài tên nhất định không chịu chạy nữa, thì chấp nhận đeo cái bảng to tổ bố trước ngực: “Tôi là thằng hèn!” rồi bước đi lửng thửng. Một thằng bạn tôi, lòng khòng, chạy quá sức, bị vỡ xương ống quyển, phải chở vào nhà thương bó bột. Một anh khác, chạy thế nào mà “sa đì”, nghĩa là…bị rớt “hột me” vào trong bụng, phải mổ lắp hột lại vị trí cũ.
Mãi rồi cũng lết tới nơi, vừa tới chỗ dựng trại, mọi người được phân công cứ hai người một cái lều, khai rãnh nước chung quanh lều và đào hai hố cá nhân, chống tấn công. Số tôi xui, thằng bạn được chia làm lều với tôi lại lên xe cứu thương mất rồi, nên còn có một mình, phải làm bá thở.
Trường Sinh Viên Sĩ Quan Fort Benning là trường dành cho Mỹ, tên nào tên nấy to con gấp đôi người Việt mình, nên khi luyện thể lực thì dân Việt mình phải cố gắng khủng khiếp mới theo kịp họ. Nhưng có điều hãnh diện là cho dù nhỏ con, thì phe ta cũng không đến nỗi tệ. Trong những màn tập bò dưới hỏa lực, đại liên bắn như mưa trên đầu, phải bò thật lẹ kẻo ăn đạn, phe ta cũng làm ngon lành. Ớn nhất là màn đeo toàn bộ súng đạn chui vào trong một cái ống cống sắt, dài cả vài trăm mét. Vừa chui cái đầu vào là cả đại đội bắt đầu ném đá vào cái ống… Những tiếng vang (echo) trong cái ống đó còn khiếp hơn cả tiếng nổ của đại bác ngay lỗ tai mình. Phải bò thật nhanh, với cái suy nghĩ là sẽ không bao giờ ra khỏi, vì sao mà nó dài dằng dặc, dài kinh khủng như thế. Đôi lúc muốn chùn lại, nhưng không được vì đằng sau cũng có một thằng cũng đang cuống quít như mình.. Rồi vượt sông trong lửa đạn, leo núi, băng đồi, lúc nào cũng chạy như điên để theo kịp đồng ngũ, hơi thở đôi khi muốn tắt ngủm. Ngoài cây súng vài ký lô, cái ba lô chĩu nặng 600 viên đạn, đồ hộp cho cả tuần lễ, túi ngủ, xẻng, võng, lưỡi lê, và lều.. mỗi lúc mỗi nặng hơn. Số tôi khốn nạn vì khá cao nên ngoài đạn dược cá nhân, còn phải vác đạn đại liên nữa. Tên bạn Mỹ đen khổng lồ vác cây đại liên cứ rủa tôi hoài: “Mẹ kiếp, mày đi như con rùa!” làm tôi nghiến răng chạy tới muốn xỉu luôn. Vì thế, khi được dừng chân là tôi ngủ như trâu, không cần biết đó là chỗ nào. Có khi nằm trên sườn núi dốc, hai chân tôi dang ra đạp vào hai gốc cây, rồi cứ thế mà ngủ, không cần biết rằng có nhiều thằng đang ngủ thì lăn xuống hố vỡ cả đầu. Một đêm đi di hành bị mưa ướt, anh em đều căng tấm bạt thành hình chử V ngược, rồi mắc võng bên trong để ngủ ngon lành. Tôi lười biếng, lăn ra đất, chẳng lều chẳng võng, cứ ngửa mặt lên trời mà ngủ! Nằm môt lúc thì lạnh, những giọt nước mưa thấm vào quần áo và làm cho.. chỗ ấy lạnh quá, tôi bèn cởi hết quần áo ra, cuốn cái “poncho” kín người rồi ngủ như chết. Sáng dậy, thấy mình nằm trần truồng giữa một vũng nước mênh mông, may mà thò được cái mũi nổi trên mặt nước!
Chương trình huấn luyện của chúng tôi vừa cần thể lực vừa cần lanh trí. Cuối cùng, chúng tôi phải trải qua một tháng huấn luyện Biệt Động Quân (Ranger) nhớ đời. Mỗi thằng được phát lương khô cho một tuần lễ mà thôi, hết thì phải “mưu sinh thoát hiểm”, vớ gì ăn nấy. Chúng tôi được thả ra tại cuối rừng Georgia rồi phải vừa đánh vừa chạy làm sao cuối tháng tới Alabama! Đánh trận này gần như thiệt, nghĩa là có thể bị Vi-Xi (giả) bắt và hành hạ. Tên nào lè phè mà bị Vi Xi bắt là khốn khổ. Thằng bạn tôi bị bắt lúc đi tiểu đêm, hắn bị địch quân trói hai tay vào cái khung mui xe GMC tong teng, rồi xe chạy ầm ầm trong rừng, lắc hắn gần vãi ra quần! Sau đó, hắn bị lột giầy, tước mất lương thực, nước uống, địa bàn, và tống đi tìm đơn vị mình! Tên này lang thang trong rừng với bàn chân rách, khi gần chết khát mới được bạn bè cứu. Một tay ở đơn vị khác, bị bắt và bị trói giằng tay chân dưới đất thành hình chữ X, rồi bị địch.. tiểu vào mồm! Một thằng bị trói vào cây có kiến càng, xỉu lên xỉu xuống vì bị kiến cắn vào chỗ nhột.
Địch quân rất hung dữ, chúng dùng cả hơi cay! Nếu không gác giặc đàng hoàng, mà bị tấn công bằng hơi cay và bị bắt thì tàn đời.
Điều ớn nhất là đói. Sau khi ăn hết đồ hộp thì đói mê man, tên nào vớ được củ thì đào củ, vớ được cóc nhái, rắn là xơi tuốt. Uống nước ở những cành cây thân mềm thõng xuống… Khi đói gần lả, phải bò đi ăn trộm. Trung đội chúng tôi hên bò gần một nông trại trồng dưa hấu, ban đêm cử mấy thằng thật nhanh và thật gan, bò vào ăn trộm dưa mang ra cho cả bọn ăn. Luật của Alabama là cho bắn bỏ mọi thằng ăn trộm, nên bò vào trại phải chấp nhận sinh tử. May mà mấy tên ăn trộm này kinh nghiệm và nhanh như cắt, nên không tai nạn nào xẩy ra.
Một lần nữa, đang đi lảo đáo, thấy trước mặt một rừng mận ĐàLạt (plum) đỏ chót, tụi tôi phóng tới như điên, cứ một tay vớ quả tọng vào mồm, một tay nhét túi căng phồng lên. Nhưng ăn nhiều mận mà đói bụng thì còn khổ hơn là đói. Chỉ một tiếng sau là toàn những tiếng rên la “đau bụng”. Thằng nào thằng nấy mặt xanh, mặt vàng rồi ráng móc họng cho ói ra mà không được, nên chỉ còn ôm bụng quằn quại cho đến khi.. xổ ra được thì mới êm. Mấy lần sau, thấy dâu tím (blueberry) hay dâu dại (black berry) đầy đất, rút kinh nghiệm, không ai dám ăn nhiều.
Trong khi đó, vẫn phải đánh ngày, đánh đêm, chẳng ngủ nghê gì. Đêm tối thui, đi trong rừng chỉ có nắm thắt lưng thằng đi trước thật chặt, vậy mà vẫn có thằng rớt hố, thằng rơi xuống suối. Mấy thằng đó phải nằm lại chờ ngày hôm sau, có xe cứu thương đến rước!
Những tuần lễ huấn luyện Biệt động này làm cho chúng tôi trưởng thành rất mau, tuy một số phải đi nhà thương, nhưng mình đầy kinh nghiệm chiến trường, được gọi hỏa lực tiếp viện, được phục kích, đánh đồn ban đêm, từ công kiên chiến đến du kích, chơi đủ kiểu…

3. Chương trình huấn luyện
Phải nói chương trình huấn luyện một sĩ quan trừ bị như chúng tôi tốn cả triệu đô la cho mỗi thằng cũng đáng. Được học lái xe tăng, bán đại bác từ 105 ly, 155 đến 175 ly. Bắn đại bác không dật 90 ly, bắn trực xạ, bắn vòng cầu.
Mỗi sinh viên được xử dụng súng cối 4.2 khoảng 10 - 20 quả. Súng cối 90 ly là chuyện nhỏ, súng cối 60 ly thì bắn như cao bồi, nghĩa là để chân đế súng vào đùi, chĩa súng ra ngoài, rồi ném đạn vào nòng, sau đó hướng mũi súng vào chỗ nào thích bắn! Đại liên 60 cũng kẹp đùi như cao bồi chứ không để nằm. Dân Việt nhỏ con, sức yếu nên một thằng bóp cò, một thằng phải đứng đàng sau, chống tay vào lưng thằng bắn, để giữ nó lại khỏi bị sức giật của súng làm té nhào. Tập bắn hỏa tiễn chống xe tăng, hỏa tiễn chống biển người, hỏa tiển dưới đất (địa - địa), và xem hỏa tiễn chống máy bay (địa – không). Súng đại liên 50 thì dĩ nhiên phải để nằm, được bắn phòng cả tay.
Chúng tôi cũng học không vận và nhẩy... không dù từ trực thăng xuống. Học cả Rada, súng phòng không, thực tập với hơi ngạt, đọc không ảnh. (Nói về ngủ gật khi đang học thì ớn lạnh. Bạn học có quyền đấm mình ngã lăn ra giữa lớp! Một thằng đeo kính cận, có giây thung cột đằng sau ót, ngủ gật, bị tên ngồi phía sau rút cái giây thung ấy căng ra và .. thả “bụp” một cái vào ót, điếng người!) Dĩ nhiên cũng có những môn về vũ khí mới hay chiến lược gì đó thì nhóm Việt không được vào phòng học.
Điều đáng nói ở đây là tuy chương trình huấn luyện đặc biệt về chiến tranh Việt Nam, trên các tường phòng học nào cũng có hàng chữ “Phải thắng ở Việt Nam” (Win in Vietnam), và trên cặp mà các sinh viên mang theo, cũng có hàng chữ đó, nhưng người Mỹ vẫn kỵ người Việt, không muốn cho thắng ở Việt Nam. Bằng chứng là trong một cuộc biểu diễn hỏa lực mạnh không tưởng tượng được, có những món vũ khí mà nếu đem ra xử dụng ở Việt Nam, chắc cuộc chiến phải đổi chiều. Thí dụ như xe tăng gắn súng bắn lựu đạn M79 có thể bắn 400 quả lựu đạn trong một phút! Tưởng tượng mà mỗi trung đoàn có một xe này, Việt Cộng chỉ có tháo chạy, dù núp trong rừng sâu núi thẳm, vì một trái lựu đạn có tầm sát thương 3, 4 mét bán kính, lại bẳn vòng cầu có thể rớt vào bất cứ chỗ núp nào! Một phút là 400 quả! Chỉ bắn chừng 5 phút là 2000 quả bay ầm ầm đến mọi nơi. Việt cộng thường núp trong rừng cây cao su, nếu bị quạt 1000 quả lựu đạn vào thì có mặc áo giáp bằng thép cũng phải đầu hàng!
Còn xe tăng" Xe tăng có nhiều loại, có chiếc mang 4 nòng đại bác 90 ly! Bốn quả đó mà bắn một lúc vào cứ điểm thì chịu sao thấu" Nếu xe tăng mà chỉ có một nòng đại bác thì được thêm hai cây đại liên 50 hai bên! Ngoài ra còn đại bác không giật 105 ly được gắn trên xe díp chạy phăng phăng trong rừng, tới đâu cũng tới! Súng cối 4.2 thì gắn trên M.113, rót rất chính xác vào mục tiêu mà không cần có mặt ngay tại chiến trường. Nếu gặp lô cốt kiên cố, thì lại có súng phun lửa cầm tay có thể phun xa mấy chục thước! Gặp biển người thì có hỏa tiễn chống biển người, một quả gồm hàng vạn cây đinh có đuôi hình hỏa tiễn, nhỏ bằng cái tăm nhưng khi bắn tung ra thì y như hàng vạn viên đạn có người điều khiển, không thể tránh. Chỉ cần bắn chừng vài quả như thế thì có thể một tiểu đoàn địch gần ngàn người tiêu vong.
Thực tế, không cần nói chi súng lớn, trước Mậu Thân, nếu binh sĩ Việt được trang bị súng trường M.14 (không cần M.16), thay vì M.1 chỉ bắn đùng đoành có 8 viên, thì trận Mâu Thân không kéo dài như thế. Hồi mở đầu Tết Mậu Thân, lính Cộng Hòa vẫn xài Garant M.1 bắn lóp bóp từng viên, trong khi đó ở Fort Benning, chúng tôi đã dùng M.14 đi diễn hành rồi! (Súng M.14 có thể bắn liên thanh với hộp đạn 20 viên, lắp đạn rất nhanh.)
Nói chung, người Mỹ muốn trắc nghiệm lòng can đảm và tài nghệ chiến tranh của Việt Nam, nên chỉ đem sang Việt Nam những vũ khí lỗi thời, lạc hậu. Đợi cho Việt Nam xiểng liểng vì súng tối tân của Nga và Trung Cộng, mới gửi sang đợt “mới” bổ sung cho các vũ khí cũng đã bị đào thải tư khuya. Sau khi T54 của Trung Cộng chê hỏa tiễn M72 của Mỹ, lúc đó mới gửi sang M 202! Sau khi B.40 tung hoành, Mỹ mới gửi sang M.72 để thay thế Bazoka từ hồi Thê chiến 2. Sau khi Vixi có AK47, mới cho Việt Nam AR15 rồi đổi thành M16. Sau khi hỏa tiễn Kachiusa và các loại hỏa tiễn cầm tay của Liên Xô tung hoành, giết tơi bời dân Việt, mới gửi sang đại bác 175 ly, bắn xa khoảng 40 cây số, nhưng lại quá năng nề, không di chuyển thuân tiện trên các đường phố hay mấy cây cầu nhỏ vì sẽ làm cầu sập.
Vì thế và dĩ nhiên, vì các lý do chính trị khác, người Mỹ đã bỏ rơi chúng ta, bất chấp bao nhiêu lời thề ước bảo vệ Việt Nam của các đời Tổng Thống Mỹ.
Điều cuối cùng mà tôi muốn viết để chấm dứt bài này là quyết định “tức cười” của Bộ Quốc Phòng Việt Nam: Tất cả 18 chúng tôi đều tốt nghiệp Thiếu Úy Bộ Binh Hoa Kỳ, có nghi lễ cấp bằng, gắn lon long trọng hẳn hoi, mà về nước lại bị tụt lon xuống còn Chuẩn úy vì cho rằng Chuẩn úy Việt Nam ngang ngửa với Thiếu Úy Hoa Kỳ! Một chi tiết tầm thường nhưng nghĩ kỹ thì thấy kỳ cục, chứng tỏ cuộc chiến thất bại có lẽ cũng vì có hàng triệu chi tiết kỳ cục như thế. Một cuộc chiến thua, không hẳn vì địch quân mạnh, mà vì chính phe ta thiếu sót…
Lô Thơm

Ý kiến bạn đọc
15/04/201120:20:15
Khách
Bài viết quá hay,cám ơn tác giả Lô Thơm đã cho những kinh nghiệm quý báu về người Mỹ.
13/04/201113:56:05
Khách
quá hay !
08/04/201122:51:32
Khách
den gio van ky` thi. do'. Nam 1990 ban tui noi " ba tao khong them di my vi` ba tao du hoc nen biet my ra sao roi
08/04/201101:32:22
Khách
Câu chuyện tài liệu rất bổ ích. Cảm ơn tác giả có trí nhớ thật tốt , sau bao nhiêu năm thăng trầm mà vẫn còn nhớ rõ mồn một để kể lại cho đọc giả đồng hương nghe. Cảm ơn nhiều.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,329,625
Con đường dài nhất của người lính không phải là con đường ra mặt trận, mà chính là con đường trở về nhà. Đúng vậy, con đường trở về mang nhiều cay đắng, xót xa của vết thương lòng, của những cái nhìn không thiện cảm của người chung quanh mình, và nhất là những cơn ác mộng mỗi đêm, cho dù người lính đã giã từ vũ khí mong sống lại đời sống của những ngày yên bình trước đây.
Khanh con gái bà chị họ của tôi, sinh năm Nhâm Tý xuân này tròn 48 tuổi, ông bà mình bảo, Nam Nhâm, Nữ Quý bảnh nhất thiên hạ. Mẹ nó tuổi Quý Tỵ, khổ như trâu, một đời vất vả gánh vác chồng con, con bé tuổi Nhâm mạnh mẽ như con trai nhờ ông ngoại hun đúc từ tấm bé.
Nhìn hai cây sồi cổ thụ ngoài ngõ cũng đủ biết căn nhà đã trả hết nợ từ lâu. Hai cái xe Cadillac của người già không lên tiếng nhưng nói biết bao điều về nước Mỹ. Khi còn trẻ thì người ta không có tiền để mua những cái xe đắt tiền như Cadillac, Lincoln. Những cô cậu thanh niên mắt sáng, chân vững tay nhanh, chỉ đứng nhìn theo những chiếc xe bóng loáng, mạnh mẽ…
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Bà định cư tại Mỹ từ 26 tháng Ba 1992, hiện là cư dân Cherry Hill, New Jersey. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả
Tác giả đã nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2019. Là con của một sĩ quan tù cải tạo, ông đã góp 3 bài viết xúc động, kể lại việc một mình ra miền Bắc, đạp xe đi tìm cha tại trại tù Vĩnh Phú, vùng biên giới Việt-Hoa Sau đây là bài viết mới nhất của Ông nhân ngày lễ Tạ ơn
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 9, 2018. Ông tên thật Trần Vĩnh, 66 tuổi, thấy giáo hưu trí, định cư tại Mỹ từ năm 2015, hiện là cư dân Springfield, MA. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7/2018, với bài “Thời Gian Ơn, Ngừng Lại”. Tên thật: Nguyễn Thị Kỳ, Bút hiệu: duyenky. Trước 30.4.1975: giáo viên Toán Lý Hoa-Tư thục-Saigon-VN.