Bốn Mươi Năm Sau
Tác giả: Ngôn Nguyễn Đ.72
Bài số 2974-28274-vb5082610
Tác giả, theo bài viết, từng là một huấn luyện viên truyền tin cho Liên Đoàn 5 LLĐB /Hoa kỳ phía Đông Nam phi trường Nha Trang thời đầu thập niên 1970’, hiện là cư dân Seattle, tiểu bang Washington State. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể chuyện tái ngộ hiếm có với một cố vấn Mỹ, 40 năm sau. Mong ông sẽ tiếp tục viết thêm.
***
Ngày đầu tiên đặt chân xuống Hoa Ky, nơi tôi đến là California. Gia đình tôi ở đó gần bốn tháng rồi di chuyển tới chỗ ở hôm nay. Đất nước tự do có khác, muốn đi đâu thì cứ đi không cần trình báo không xin cắt, xin nhập hộ khẩu chi cả, miễn sao có tiền mua vé máy bay là được.
Tiểu bang tôi ở cùng một múi giờ với Cali, máy bay đúng 2 giờ 30 phút từ khi rời phi trường Los... cho đến khi bánh chạm đất phi trường Seat.., thời tiết lại khác hẵn Cali, một năm 3 tháng mưa dầm, 6 tháng mưa phùn gió lạnh, tuyết rơi, còn lại 3 tháng nắng mà nắng cũng không ra hồn, nhưng có cái tên nghe rất thơ mộng: Thung Lũng Tình Xanh.
Cãm giác của những tháng đầu đến Mỹ chắc ai cũng như ai, ở Cali thì đỡ hơn vì thời tiết nắng ráo không héo hắt buồn như đây, họ nói: (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ) cảnh ở đây cho dù lòng người có vui cũng không vui nỗi, bầu trời mây đen xuống thấp bao phủ những hàng cây trơ cành trụi lá, hàng thông cao ngất, rủ lá giống như đang trùm áo pông chô, đứng xa xa không phân biệt được màu lá xanh hay màu đen.
Về mùa nắng, từ thứ 5 cho đến Chúa Nhật không tuần nào chúng tôi bỏ các tuyến đường tìm kiếm garage sale.
Thứ nhất, đây cũng là một thú vui, vì không có xó xỉnh nào mà chúng tôi không tới, phía Bắc của Tiểu bang nơi chúng tôi ở các thành phố lớn nhỏ nằm về hướng nầy, nhờ garage sale mà các con đường lớn nhỏ đều thuộc nằm lòng.
Thứ hai, có dịp vào tham quan vườn nhà của người bản xứ, có nhiều loại nhà vườn rất đẹp, có suối, có hồ, có nhà thủy tạ.
Thứ ba, thượng vàng hạ cám toàn hàng hiệu, cái gì cũng có, với giá rất rẻ.
Người Mỹ họ bày bán những thứ mà mình không tin là họ có. Một tượng Phật bằng ngà cao 0,6 cm, đứng trên đài sen, một cái mõ của Trung quốc niên hiệu 1905, mõ nầy không cần gỏ bằng dùi mà gỏ bằng ngón tay trỏ, rồi Chúa, Mẹ, ông Địa, ông Thần tài, cái gì họ cũng có, đều đem ra bán ráo trọi, cái thì 50 xu cái thì 1 đồng, tôi gặp các vị là thĩnh về chất đầy bàn thờ, chật cả nhà, nơi nào cũng có Phật, có Chúa, có Mẹ Maria có Phật bà Quan Thế Âm không phải một vài tượng mà cã chục chẵng khác chi nhà bán tượng ảnh.
Mùa hè năm ngoái, chúng tôi vào nhà bán Moving sale. họ bày bán trong hiên nhà, một ông Mỹ già đầu láng bóng không còn sợi tóc ngồi đọc sách ngay cổng ra vào, thấy vợ chồng tôi xuống xe ông đưa tay chào rồi tiếp tục cúi xuống chăm chú đọc, ngoài nhìn vào chẵng thấy chi ngoài một dãy sách cũ xếp dài theo lan can và trên giá ván ép, cùng chồng gổ tranh sơn mài.
Vào trong sân tôi ngạc nhiên đứng nhìn sửng sốt cái bể xây chìm, hình thuẩn, trên thiết kế hòn non bộ, cảnh núi non bên mình, có hai ông tiên đang chơi cờ, một ông Tiều phu gánh củi, một ông lão câu cá bên hông mang bầu rượu, hai con trâu một đứa bé đang cởi tay cầm ống sáo. Tôi nhìn lại chủ nhà lần nữa, ông Mỹ già mà, lòng tôi cứ thắc mắc tại sao " Vợ tôi trong hiên gọi vọng ra.
- Ông ơi ! vô đây mau.
Giọng của bà có vẻ khác thường, tôi bước vào thì toàn là truyện Việt Nam, không thiếu một tác giả nào, nhiều nhất là truyện kiếm hiệp, vợ tôi đang soạn bộ tranh sơn mài, bốn bức ghép lại cảnh đồng quê Việt Nam, để giá 4 đô la góc tranh vẽ ghi 1958. Vợ tôi nói nhỏ :
-Chắc ông Mỹ nầy có vợ Việt, toàn là sách truyện và tranh ảnh của mình cã.
Tôi nói :
-Có lẻ như vậy, chút nữa bà ra coi hòn non bộ,ai làm cho ông ta thật quá đẹp.
Tôi lựa hai quyễn sách, Vết thù trên lưng ngựa hoang và Gánh hàng Hoa, vợ tôi lấy bộ sơn mài đồng quê Viêt Nam, mang đến tính tiền, tôi giật mình khi thấy ông ta đang đọc quyễn Hồn Bướm Mơ Tiên, tôi nhìn sững quyễn sách, ông cười và nói tiếng Việt Nam trơn tru :
- Tập truyện nấy quá hay, tôi mua rất lâu, nhiều quá bỏ lộn xộn, hôm nay soạn ra bán gặp nó đang còn đọc nữa chùng, ông đã đọc chưa "
- Dạ tôi học qua lúc nhỏ.
Hai vợ chồng chúng tôi sững sờ nhìn ông, cứ tưởng đó là một người Việt lai.
Tôi nhớ lại năm 1971 ba Đoàn 71, 72 và 75 tham dự khóa huấn luyện tại bản doanh của Liên Đoàn 5 LLĐB /Hoa kỳ phía Đông Nam phi trường Nha Trang, tôi phụ trách huấn luyện môn Truyền tin, phía Cố Vấn có ông Thượng sỹ Mỹ tên DOYE, ngồi bàn cuối theo dõi huấn luyện, ông ta say mê đọc tiểu thuyết Quỳnh Giao, thích uống cà phê sửa nóng và nhậu thịt chó, tôi thường đưa ông ta tới quán thịt chó trên đường Trần Quý Cáp gần Quân trấn Nha trang. Ông ta không những rành tiếng Việt mà tiếng Thượng ba vùng Pleiku, KonTum và Ban Mê Thuột ông ta rành không thua gì tiếng Việt.
(Tiếng Thượng mỗi vùng nói một thứ tiếng khác nhau, Thượng Vùng 2 không hiểu được tiếng Thượng Vùng 1, sắc dân Bra-ha không hiểu tiếng Ra- ê, có thể người mang giòng họ Y không hiểu tiếng giòng họ Yuon trong khi họ cư trú gần nhau).
Ông ta ngước mắt lên nhìn tôi và nói:
- Người Việt thì biếu, không lấy tiền.
Từ ngạc nhiên nầy qua ngạc nhiên khác, trong lòng cũng mừng may mà vợ chồng tôi không nói chi bậy bạ.
Tôi trả lời:
- Cám ơn ông, ông nói tiếng Việt quá rõ.
Ông hỏi tôi.
-Ông bà nói tiếng Huế mà ở vùng nào"
Tôi trả lời.
-Phủ Cam, ông có biết không "
- Tết Mậu Thân Phủ Cam bị giết nhiều người hơn nơi nào cả, gia đình ông bà có ai bị tai họa đó không"
- Có, cha vợ của tôi, Ba của bà nầy đây, tôi chỉ tay vào vợ tôi.
-Tôi xin chia buồn với bà. Thế ông Cụ tìm thấy xác ở vùng nào"
- Khe Đá mài.
- Cọng Sản quá dã man, khe Đá Mài tôi không tới, nhưng tôi có tới 7 nơi chôn tập trung khác của 3 quận Phú Vang, Phú Thứ và Hương Thủy.
-Ông qua Việt Nam từ năm nào" Ông học tiếng Việt bao lâu mà ông nói rành vậy"
-Tôi qua Việt Nam 2 lần, lần đầu từ 1958 đến 1963, lần 2 từ 1967 đến cuối 1972. Mười hai năm tôi sống khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, tôi cũng nói rành tiếng Thượng, có quá nhiều kỷ niệm, tôi yêu quý người Việt lắm.
Tôi chăm chú nhìn ông ta, cố hình dung lại ông Doye ngày xưa, nhưng không tìm được chút quen thuộc gì trên người Mỹ già nầy cảõ, tôi nói với ông ta cố ý hỏi dò.
-Thời còn trong Quân đội tôi có một người bạn Cố Vấn Mỹ, ông ta cũng giỏi như ông, coi tiểu thuyết Quỳnh Giao, thích nước mắm nhỹ Phú Quốc, nhậu thịt cầy uống rượu đế, cà phê sữa nóng mỗi lần ông ta uống ba ly.
Ông bỏ quyễn sách xuống đứng dậy hỏi tôi.
-Năm 1971 ông có ở Nha Trang không"
Tôi trả lời.
- Có, xin lỗi ông có phải là ông Doye không"
-Phãi rồi tôi là Doye đây, còn anh"
-Tôi là Ngôn đây, anh còn nhớ không "
-Nhớ quá đi chứ, mình già rồi không thể nhận ra nhau.
Ông Doye ôm tôi thật chặt, cảm động quá thật không ngờ sự gặp gỡ kỳ lạ nầy, ông vào nhà lấy hai chiếc ghê sắt cho vợ chồng chúng tôi ngồi.
Ông đã nói thật nhiều về cuộc sống của ông sau khi từ giã Việt Nam.
Tôi cũng kể rất nhiều về đợn vị và tình hình miền Nam sau khi ông về cho đến 1975, về số phận của Quân Cán Chính, những năm tháng tù đày, người ra đi, kẻ ở lại.
Ông ngậm ngùi chia sẻ nỗi đau với anh em cùng đơn vị và đồng bào Miền Nam Việt Nam.
Mùa Giáng Sinh năm ngoái ông một lần nữa ôm chặt tôi từ giã để về Hawaii, hứa sẽ tìm tôi ngày trở lại Seattle.
Ngôn Nguyễn Đ.72.