Hôm nay,  

Bốn Mươi Năm Sau

26/08/201000:00:00(Xem: 106932)

Bốn Mươi Năm Sau

Tác giả: Ngôn Nguyễn Đ.72
Bài số 2974-28274-vb5082610

Tác giả, theo bài viết, từng là một huấn luyện viên truyền tin cho  Liên Đoàn 5 LLĐB /Hoa kỳ  phía  Đông Nam phi trường Nha Trang thời đầu thập niên 1970’, hiện là cư dân Seattle, tiểu bang Washington State. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông kể chuyện tái ngộ hiếm có với một cố vấn Mỹ, 40 năm sau. Mong ông sẽ tiếp tục viết thêm.

***
 
Ngày đầu tiên đặt chân xuống Hoa  Ky, nơi tôi đến là California. Gia đình tôi ở đó gần bốn tháng rồi di chuyển  tới chỗ ở hôm nay. Đất nước tự do có khác, muốn đi đâu thì cứ đi không cần trình báo không xin cắt, xin nhập hộ khẩu chi cả, miễn sao có tiền mua vé máy bay là được.
Tiểu bang tôi ở cùng một múi giờ với Cali, máy bay đúng 2 giờ 30  phút từ khi rời phi trường Los... cho đến  khi  bánh chạm đất phi trường Seat.., thời tiết  lại khác hẵn Cali, một năm 3 tháng mưa dầm, 6 tháng mưa phùn gió lạnh, tuyết rơi, còn lại 3 tháng nắng  mà nắng cũng không ra hồn,  nhưng  có cái tên nghe  rất thơ mộng: Thung Lũng Tình Xanh.
Cãm giác  của những tháng  đầu đến Mỹ chắc ai cũng như ai, ở Cali thì đỡ  hơn vì thời tiết nắng ráo không héo hắt buồn như đây, họ nói: (người buồn cảnh có vui đâu bao giờ) cảnh ở đây cho dù lòng  người có vui cũng  không vui nỗi,  bầu trời mây đen xuống thấp  bao phủ những hàng cây trơ cành trụi lá,   hàng thông cao ngất, rủ lá  giống như đang trùm áo pông chô, đứng  xa xa  không phân biệt được màu lá xanh hay màu đen.
Về mùa nắng, từ thứ 5 cho đến Chúa Nhật không tuần nào chúng tôi bỏ các tuyến  đường tìm kiếm garage sale.
Thứ nhất, đây cũng là  một  thú vui, vì  không có xó xỉnh nào mà chúng tôi không tới, phía Bắc của Tiểu bang nơi chúng tôi ở các thành phố lớn nhỏ nằm về hướng nầy, nhờ garage sale mà  các con đường  lớn nhỏ đều  thuộc nằm lòng.
Thứ hai, có dịp vào tham quan  vườn nhà của người bản xứ, có nhiều loại nhà vườn rất đẹp, có suối, có hồ, có nhà thủy tạ.
Thứ ba, thượng vàng hạ cám toàn hàng hiệu, cái  gì cũng có, với giá rất rẻ.
Người Mỹ họ bày bán những thứ mà mình không tin là họ có.  Một tượng Phật bằng ngà  cao 0,6 cm, đứng trên đài sen,  một cái mõ của Trung quốc niên hiệu 1905, mõ nầy không cần gỏ bằng dùi  mà gỏ bằng ngón tay trỏ, rồi  Chúa, Mẹ, ông Địa, ông Thần tài, cái  gì họ cũng  có, đều đem ra bán  ráo trọi,  cái thì 50 xu  cái thì 1 đồng, tôi gặp  các vị là thĩnh về chất đầy bàn thờ,  chật cả nhà, nơi nào cũng  có Phật, có Chúa,  có Mẹ Maria có  Phật  bà Quan Thế Âm  không phải một vài tượng mà cã chục chẵng khác chi nhà bán tượng ảnh.
Mùa hè  năm ngoái, chúng tôi vào  nhà bán  Moving sale.  họ bày  bán  trong hiên nhà, một ông Mỹ già đầu láng bóng không còn sợi  tóc ngồi đọc sách ngay cổng ra vào, thấy vợ chồng tôi xuống xe  ông  đưa tay chào rồi tiếp tục cúi xuống chăm chú đọc,  ngoài  nhìn vào chẵng thấy chi ngoài  một dãy sách cũ  xếp dài theo lan can và trên giá ván ép, cùng  chồng gổ  tranh sơn mài.
Vào  trong sân tôi  ngạc nhiên  đứng nhìn sửng sốt  cái bể xây chìm, hình thuẩn, trên thiết kế hòn non bộ, cảnh núi  non  bên mình, có  hai  ông tiên đang chơi cờ, một ông Tiều phu gánh củi, một  ông lão câu cá bên hông mang bầu rượu, hai con trâu  một đứa bé  đang cởi tay cầm ống  sáo. Tôi nhìn lại chủ nhà lần nữa, ông Mỹ già  mà, lòng tôi cứ thắc mắc  tại sao " Vợ tôi  trong hiên gọi vọng ra.
- Ông ơi ! vô đây mau.
Giọng  của bà có vẻ khác thường, tôi bước vào thì toàn là truyện Việt Nam, không thiếu một tác giả nào, nhiều nhất là truyện kiếm hiệp,  vợ tôi đang soạn bộ tranh sơn mài, bốn bức ghép lại cảnh đồng quê Việt Nam, để giá 4 đô la góc tranh vẽ ghi 1958. Vợ tôi nói nhỏ :
-Chắc ông Mỹ nầy có vợ Việt,  toàn là sách truyện và tranh ảnh của mình cã.
    Tôi nói :


-Có lẻ như vậy, chút nữa bà ra coi hòn non bộ,ai làm cho ông ta  thật quá đẹp.
    Tôi lựa  hai quyễn sách, Vết thù trên lưng ngựa hoang  và Gánh hàng Hoa,  vợ tôi lấy bộ sơn mài  đồng quê  Viêt Nam, mang  đến tính tiền,  tôi giật mình khi thấy ông ta đang đọc quyễn Hồn Bướm Mơ Tiên, tôi nhìn sững quyễn sách, ông cười và nói tiếng Việt Nam  trơn tru :
- Tập truyện nấy quá hay, tôi mua rất lâu, nhiều quá bỏ lộn xộn, hôm nay soạn ra bán gặp nó  đang còn đọc nữa chùng, ông đã đọc chưa "
- Dạ tôi học qua lúc nhỏ.
Hai vợ chồng chúng tôi  sững sờ nhìn ông, cứ tưởng đó là một người Việt lai.
 Tôi nhớ lại năm 1971  ba Đoàn 71, 72 và 75   tham dự khóa huấn luyện tại  bản doanh của  Liên Đoàn 5 LLĐB /Hoa kỳ  phía  Đông Nam phi trường Nha Trang, tôi phụ trách huấn luyện môn Truyền tin, phía Cố Vấn có ông Thượng sỹ Mỹ tên DOYE,  ngồi bàn cuối  theo dõi huấn luyện, ông ta say mê đọc tiểu thuyết  Quỳnh Giao, thích  uống cà phê sửa nóng và nhậu thịt chó, tôi thường đưa ông ta tới quán thịt chó trên đường Trần Quý Cáp  gần Quân trấn Nha trang.  Ông ta không những rành tiếng Việt mà tiếng Thượng  ba  vùng Pleiku, KonTum và Ban Mê  Thuột  ông ta  rành không thua gì  tiếng Việt.
(Tiếng Thượng mỗi vùng nói một thứ tiếng khác nhau, Thượng Vùng 2 không hiểu được tiếng Thượng Vùng 1, sắc dân Bra-ha không hiểu tiếng Ra- ê, có thể  người mang  giòng họ Y  không hiểu tiếng  giòng họ Yuon trong khi họ cư trú gần nhau).
 Ông ta ngước mắt lên nhìn tôi và nói:
- Người Việt thì biếu, không lấy tiền.
Từ ngạc nhiên nầy qua ngạc nhiên khác, trong lòng cũng mừng   may mà  vợ chồng tôi không nói chi bậy bạ.
 Tôi trả lời:
- Cám ơn ông, ông nói tiếng Việt quá  rõ.
 Ông hỏi tôi.
-Ông bà  nói tiếng Huế mà ở vùng nào"
Tôi trả lời.
-Phủ Cam, ông có biết không "
- Tết Mậu Thân Phủ Cam bị giết nhiều người hơn nơi nào cả, gia đình ông bà có ai bị tai họa đó không"
- Có, cha vợ của tôi,  Ba của bà nầy  đây, tôi chỉ tay vào vợ tôi.
-Tôi xin chia buồn với bà. Thế ông Cụ tìm thấy xác ở vùng nào"
- Khe  Đá mài.
- Cọng Sản  quá dã man, khe Đá Mài tôi không tới, nhưng tôi có tới 7 nơi  chôn tập trung khác của 3 quận Phú Vang, Phú Thứ và Hương Thủy.
-Ông qua Việt Nam từ năm nào" Ông học tiếng Việt bao lâu mà ông nói  rành vậy"
-Tôi qua  Việt Nam 2 lần, lần đầu từ 1958 đến 1963, lần 2 từ 1967 đến  cuối 1972.  Mười hai năm tôi sống khắp nơi ở miền Nam Việt Nam, tôi cũng nói rành tiếng Thượng, có quá nhiều kỷ niệm, tôi yêu quý  người Việt lắm.
Tôi  chăm chú nhìn ông ta, cố hình dung lại ông Doye ngày xưa, nhưng không tìm được chút quen thuộc gì trên người Mỹ già nầy cảõ, tôi nói với  ông  ta cố ý hỏi dò.
-Thời còn trong Quân đội tôi có một người bạn Cố Vấn Mỹ, ông ta cũng giỏi như ông, coi tiểu thuyết Quỳnh Giao, thích nước mắm nhỹ Phú Quốc, nhậu thịt cầy uống rượu đế, cà phê sữa nóng mỗi lần ông ta uống  ba  ly.
Ông  bỏ quyễn sách xuống  đứng dậy  hỏi tôi.
-Năm 1971 ông có ở Nha Trang  không"
Tôi trả lời.
- Có, xin lỗi  ông  có phải là ông Doye không"
-Phãi rồi tôi là Doye đây, còn anh"
-Tôi là Ngôn đây, anh còn nhớ không "
-Nhớ quá đi chứ, mình già  rồi không thể nhận ra nhau.
Ông  Doye  ôm tôi thật chặt,  cảm động quá thật không ngờ  sự gặp gỡ kỳ lạ nầy, ông vào nhà lấy  hai chiếc ghê sắt cho vợ chồng chúng tôi ngồi.
Ông đã nói thật  nhiều về cuộc sống của ông sau khi từ giã Việt Nam.
Tôi cũng kể rất nhiều về đợn vị và tình hình miền Nam  sau khi ông về cho đến  1975, về số phận  của  Quân Cán Chính, những năm tháng tù đày, người ra đi,  kẻ ở lại.
Ông ngậm ngùi chia sẻ nỗi đau với anh em cùng đơn vị và đồng bào Miền Nam Việt Nam.
Mùa Giáng Sinh năm ngoái ông  một lần nữa  ôm chặt tôi từ giã  để  về  Hawaii, hứa  sẽ tìm tôi ngày  trở lại Seattle.
Ngôn Nguyễn Đ.72.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,365,428
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới của tác giả.
Tác giả là một nhà giáo, nhà báo, nhà hoạt động xã hội quen biết tại Little Saigon. Tới Mỹ theo diện Hát Ô Một từ 1990. Suốt 28 năm qua, ông không ngừng viết văn viết báo tiếng Việt, tiếng Anh. Trong năm qua, có tới 7 cuốn sách mới. Góp sức với Viết Về Nước Mỹ, ông đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ những năm đầu, và vẫn tiếp tục thêm bài mới.
Tác giả là một dược sĩ tại Toronto. Với bài viết đầu tiên “Hai Bà Đầm,” ông đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ 2011. Ba năm sau, 2014, ông góp thêm bài “Hồi Ký Của Một Người Tên Ông.” Năm 2016, thêm bài “Bà Mẹ Tây” hay “Thằng Tầu Con của Mẹ.” Sang năm 2018, thêm bài thứ tư, “Đứa Con Lai...Hải Tặc.” Bài viết mới thứ 5 “Chuyện Tình...Hải Tặc” là phần kết của câu chuyện. Bạn đọc Viết Về Nước Mỹ trên Việtbao Online chỉ cần double click vào tên tác giả ở đầu bài, sẽ thấy bài cũ của cùng tác giả. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp và hết.
Tác giả đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2017. Ông hiện sống và làm contractor (hợp đồng) ngành hàng không ở Vail, Arizona cho quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông, sống trong trại lính, làm việc theo một hợp đồng dân sự. Chuyện làm việc ở Trung Đông, bài đầu đã được phổ biến ngày 4 tháng 5. Sau đây là bài viết thứ hai, chuyện của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan.
Tác giả tên thật Huỳnh Thị Huệ, 69 tuổi, đến Mỹ năm 1991 theo diện HO. hiện đang là cư dân Downey, California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà là chuyện đau thương có thật của gia đình, khi ntgười con trai tử nạn trên xa lộ vì bị một anh Mễ không giấy tờ say rượu lái xe.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bà sinh năm 1951 tại miền Bắc VN, di cư vào miền Nam 1954, là thư ký hành chánh sở Mỹ Defense Attaché Office (DAO) cho tới ngày 29 tháng Tư 1975. Vượt biển và định cư tại Mỹ năm 1980, làm thư ký văn phòng chính ngạch tại City of San Jose từ 1988-2006. Về hưu vào tuổi 55, hiện ở nhà chăm nom các cháu nội ngoại. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, đã nhận giải bán kết 2002 với bài "Tiểu Hợp Chủng Quốc" kể về nơi cô làm việc, khi khủng bố tấn công nước Mỹ ngày 9 tháng 11 năm 2001. Bài viết gần đây là ký ức Mậu Thân của cô bé thời mới lớn. Và sau đây, thêm một bài viết mới.
Từ 2005, tác giả Hoàng Đức, một nhà giáo hưu trí tại Westminster, góp bài “Dodautre tại Mỹ” và nhận giải đặc biệt Viết về Nước Mỹ. Mười ba năm sau, 2018, thêm một bài mới của Hoàng Đức 2018. Theo tiểu sử do tác giả mới tự sơ lược, tại Việt Nam, 1963-1975, ông là Giáo sư Trung học Đệ nhị cấp. Sau 1975 là mười năm thất nghiệp. Công việc tại Hoa Kỳ từ 1985: High School Teacher; College Instructor, sau đó là Social Worker. Về hưu từ 2002. Mong ông tiếp tục viết và bổ túc địa chỉ liên lạc.
Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà hiện có tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm 2017. Bài viết mới của bà là chuyện tấm hình một cô bé học trò 15 tuổi. Tấm hình từng qua tay kẻ trộm, trở thành bùa hộ mạng của một thuyền nhân, với những tình tiết éo le dài gần một đời người lưu lạc.
Tác giả từng nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông là cựu sĩ quan VNCH, giảng viên trường Sinh ngữ quân đội, cựu tù cải tạo. Ông cũng là tác giả sách "Hành Trình về Phương Đông" do "Xây Dựng" xuất bản năm 2010. Mới nhất, là cuốn "Within & Beyond" do tác giả viết bằng Anh ngữ và tự xuất bản. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Nhạc sĩ Cung Tiến