10 Năm, Đọc Lại “Cây Chuối Sứ”
Người viết: Lê Như Đức
Bài số 242b-VB2001
Phổ biến lần 2: vb5072910
Tác giả định cư tại Houston. Nghề nghiệp: Kỹ sư cơ khí, Boeing Houston Division. Gia đình: Vợ và hai con gái. Đây là bài viết về nước Mỹ vào chung kết năm 2001 nhưng thật ra viết ngay năm đầu tiên. Cuối bài, tác giả có ghi rõ “Houston, cuối Đông năm 2000. Thân tặng cụ và Joseph Hoàng.” Bài phổ biến lần đầu trong báo xuân Việt Báo Tết Tân Tỵ 2001, cùng lúc với bài “32 Năm Người Mỹ và Tôi” của tác giả Trương Ngọc Bảo Xuân. Kết quả tuyển chọn: Bảo Xuân nhận giải chung kết. Lê Như Đức và Tân Ngố Nguyễn Viết Tân, hai giải bán kết. Mới đây, Nguyễn Viết Tân vẫn nhắc bài viết này, khi chính ông trồng được “Cây Chuối Sứ” trong vườn. Mười năm Viết Về Nước Mỹ, ttrân trọng mời đọc lại. Tác giả Lê Như Đức đã bặt tin gần 5 năm qua. Với lòng quí trọng, nhiều bạn đọc và Việt Báo rất mong được biết tin về ông.
*
Đã hơn năm năm trôi qua, tôi vẫn không quên được hình dáng của cụ. Mặc dù tôi chẳng biết tên họ hay nhà cửa, nhưng tôi vẫn hằng ao ước được gặp lại cụ. Cuộc đời tỵ nạn có nhiều éo le và kỳ ngộ. Tôi không hề có một tí liên lạc hay họ hàng xa gần gì với cụ. Tôi cũng chẳng biết đến một người thân nào của cụ. Tôi chỉ vô tình gặp cụ một lần. Nói dăm ba câu chào hỏi với cụ để rồi suốt đời không quên. Chỉ thầm muốn gặp thêm một lần nữa.
Tháng tám, năm 1996 tôi có việc phải qua California làm hai ngày. Xong việc tôi vội vã trở về Houston để đỡ cho vợ tôi bớt phần nào cực nhọc với đứa con gái đầu lòng mới hơn một tuổi. Hôm đó máy bay bị trục trặc, tôi phải chờ thêm ba tiếng để đổi chuyến khác. Thời gian đợi không đủ dài để ra khỏi phi trường dạo phố. Nhưng cũng lại không ngắn để nằm yên một chỗ chờ. Loay hoay trong phi trường Los Angeles một lúc, tôi lần bước tới chỗ những chuyến bay quốc ngoại. Một chuyến bay từ Đài Loan, đưa người thăm Việt nam trở về Mỹ chợt đổ tới. Trong những hành khách lẫn lộn hôm ấy, tôi trông thấy cụ là người bước ra sau cùng.
Cụ dáng hơi cao, thật gầy và chắc chắn không hơn một trăm cân Anh. Mái tóc cụ tỉa ngắn, bạc trắng phơ lại chải ngược phía sau để lộ ra vần trán cao và rộng. Cụ có lẽ qúa bẩy chục nhưng trông vẫn tinh anh và minh mẫn. Đôi mắt sáng và sắc. Cụ ăn mặc đạm bạc. Chiếc áo măng-tô hơn sờn, ngã mầu đen bạc và cái quần tây áng nâu đất với nếp gấp còn rõ ràng, lại hơi rộng. Cụ đi đôi giầy mầu nâu đỏ chạy viền trắng nơi cổ chân. Đế giầy lẫn dây cột giầy cũng mòn và đứt nhiều. Tuy đi hai tay không nhưng một tay cụ lại hơi khép vào hông phải, khiến tôi chú ý nhiều sau lớp áo măng-tô.
Lựa một chỗ ngồi tốt, tôi nhìn cụ mỉm cười thích thú, đợi cụ bước qua hai nhân viên phi cảng. Nhân viên phi cảng Mỹ với những kinh nghiệm và đầy huấn luyện đừng nói gì cụ, ngay cả tay chuyên nghiệp cũng khó lòng qua mắt được họ. Chỉ lâu lâu vì lười biếng hay vì ...yêu đời sảng họ nhắm mắt, bỏ qua.
Tôi nhìn cụ vừa thương mến vừa tội nghiệp. Hình ảnh cụ gợi nhớ đến cha tôi qúa nhiều. Người đã ra đi, cũng năm năm trước đó.
Người nữ nhân viên phi cảng liếc sơ qua, rồi chỉ tay vào hông cụ ra dấu. Cụ lắc đầu. Cô ta quay qua người bạn nam đồng nghiệp. Họ nhìn nhau, cùng lắc đầu mỉm cười. Hình như quá quen với những chuyện đang xẩy ra, cô ta móc tay vào túi lấy ra một cuốn sổ và một đồng đô-la giấy. Cô dùng đồng đô-la phất phơ trước mặt cụ nói:
"No English. Nếu không bỏ đồ ăn tươi hay trái cây ra sẽ bị phạt nhiều tiền như cái này đây. Hiểu chưa."
Tôi thấy cụ chần chừ một lúc, đứng lên tính chạy ra can thiệp thì cụ cho tay vào hông, rút ra một bó nhỏ, tròn bằng cổ chân, được khéo léo cuộn tròn bằng tờ giấy báo cũ. Người nữ nhân viên phi cảng không buồn mở ra, chỉ thuận tay thẩy vào thùng nhựa phía sau cô và ra dấu cho cụ đi.
Cụ vừa bước đi vừa luyến tiếc, quay nhìn món qùa quý báu. Rồi như không cầm được lòng, cụ chầm chậm ngừng bước, suy nghĩ, đi lộn trở lại, đứng ngay trước cô nhân viên phi cảng nhướng to mắt nhìn. Tôi lại vội đứng lên. Hai nhân viên phi cảng tỏ ý bực tức, nhíu mày nhìn cụ. Một người to tiếng hỏi:
"Muốn bị phạt hay sao đây""
Lúc này tôi đã tới gần bên họ. Cụ ngập ngừng, sợ hãi rồi quyết định quay bỏ đi. Tôi cũng quay lại, từ từ bước theo chân cụ, về chỗ ngồi cũ.
Tuy tôi chỉ ngồi cách cụ một cái ghế trống, nhưng hình như cụ chả thấy tôi. Hai mắt lúc nào cũng hướng về phía cái thùng nhựa. Lần đầu tôi lên tiếng, cụ chả nghe. Tôi phải lập lại to:
"Bác mới về thăm Việt nam, có gì lạ không thưa bác""
Cụ để ý, nhìn tôi gật đầu nhưng không trả lời. Tôi tiếp :
"Bác về chắc có nhiều thứ trái cây ngon" Bên này có tiền cũng không mua được."
Như hỏi đúng tâm sự, cụ bầy tỏ nỗi lòng ngay:
"Việt cộng thì ác, Mỹ lại ngu. Anh à. Tôi có một củ chuối, tính mang qua đây trồng. Nó thu mất, nói mang vi trùng vào xứ nó."
Tôi bỡ ngỡ khi biết được món qùa gia bảo đó chỉ là một củ chuối. Tôi đề nghị:
"Tưởng gì chứ chuối thì bên này thiếu gì, thưa bác. Bác nói mấy anh nhà chở xuống phố Bolsa mua. Cây bự còn có nữa là củ."
Cụ trợn ngược mắt, bất mãn:
"Anh nói. Chuối này là chuối sứ đặc biệt. Tôi phải xuống tận Long-Thành, lựa hơn trăm cây mới được một. Thân nó trắng nõn, lại ngọt, thái mỏng cuộn gỏi ăn dòn tan. Trái nó mập ú, thơm nức. Bông nó thì phải biết. Bún riêu hay bún ốc cứ thái bỏ vào, nấu có tệ, ăn cũng ngon. Chuối ở Bolsa là chuối Mễ, anh à. Cả buồng cũng chẳng có mùi. Trái ra cả năm cũng chỉ to bằng ngón tay trỏ. Thân cũng chát, mà bông cũng chát. Để chưa hết ngày đã thâm đen. Cho không tôi cũng chả dám nhận.
Tôi nghe cụ thuyết về cây chuối sứ Long-Thành mà đầu óc cứ quay cuồng tới những tô bún nóng hổi vợ tôi vẫn thường nấu. Vợ tôi người miền Trung nên thường nấu bún bò Huế hay bún cá. Tuy nhiên bún nào mà có bông chuối của cụ tả thì cũng tuyệt cú mèo. Thấy tôi im lặng, cụ lẩm bẩm kể lại hoàn cảnh khó khăn:
"Anh nghĩ, trồng cây cam, cây lê thì thằng con trai nói nhiều tàn, che hết nắng, chết cỏ của nó. Trồng hoa thì đứa con dâu than phấn hoa làm ngứa. Gãi cả ngày. Chơi Lan thì quá tốn kém. Trông đi trông lại chỉ trồng chuối là ít tàn, không ngứa, lại ít phải chăm bón. Vậy mà cũng không xong, lại có lý do khác. Lắm vi trùng. Tôi về Việt-nam tìm mãi mới được cái giống qúy này còn sót lại. Việt cộng nó ác lắm, anh à, nó đánh thuế vô kể. Bà con mình có cây qúy thì đốn, có giống tốt thì không dám trồng. Đâu còn bao nhiêu nữa anh" Lần hồi mất hết thứ ngon. Gây giống cả ngàn năm, đốn cây chỉ một buổi."
Trẻ trồng na, già trồng chuối Ï. Tôi thương dùm hoàn cảnh của cụ. Xót xa không biết nói gì thêm. Lâu lâu, cụ và tôi lại ngước nhìn cái thùng nhựa cùng cô nhân viên phi cảng tóc vàng hung.
Ngồi một lúc, người con trai của cụ tới đón. Vừa thấy cụ, anh ta hối:
"Lẹ lên ba, không về trễ, con Hằng nó lại cằn nhằn con."
Cụ nhìn tôi, vội gật đầu từ giã. Nhìn cụ lật đật bước theo người con trai, tôi bồi hồi cảm xúc cho cuộc đời tỵ nạn. Tôi ao ước làm được gì cho cụ. Làm sao lấy lại cho cụ cây chuối sứ.
Ngồi suy nghĩ tính kế một lúc, tôi lại nhìn về cái thùng nhựa, chả biết làm gì hơn.
Lúc đó một nữ nhân viên vệ sinh đẩy thùng rác bự đi chung quanh thu thập đồ dư. Khi đi ngang qua chỗ xét đồ, tôi chợt thấy cô nhân viên phi cảng ngoái nhìn thùng nhựa. Có lẽ trong thùng chỉ thấy củ chuối của cụ không đáng dọn nên cô ta cầm thẩy vào thùng rác cho tiện.
Tôi sung sướng, từ từ đứng dậy hướng theo cái thùng rác...vĩ đại đó. Đẩy tới phòng vệ sinh, cô nữ nhân viên vệ sinh phải vào trong làm việc. Tôi lẹ làng bước tới mở nắp thùng. Ở một góc thùng, cái củ chuối to chỉ bằng cổ chân tôi, dài gần hai gang tay, được quấn kỹ lưỡng bằng tờ báo Nhân Dân in hình... Bác (Hồ) còn đậm nét.
Dù trong thùng rác, tôi thấy Bác vẫn vui vẻ, cười nhiều như xưa. Đã lâu lắm rồi, qúa mười lăm năm hơn tôi chưa được thấy lại dung nhan người. Người vẫn mập tròn, bơ sữa đầy đủ. Hôm nay tình cờ đối mặt người trong hoàn cảnh thật ...vô sản. Ánh mắt người hình như muốn nói nhiều với tôi: "Cháu hư của Bác, rác đế quốc vẫn thơm hơn rác xã hội chủ nghĩa."
Tôi vội túm lấy cổ Bác, nhét gọn cả Bác lẫn củ chuối vào cạp quần, rồi chạy như bay xuống cổng chính quốc ngoại của phi trường để tìm cụ. Hình như có "Bác trong quần", tôi đi đứng hơi khó khăn. Bác lại thoải mái nằm im.
Cổng phi trường quốc ngoại lúc nào cũng tấp nập. Kẻ chia tay, người mừng tới. Tôi lạc mất cụ. Không thể nào đem được chút niềm vui cho người tôi mến. Sợ trễ giờ, tôi đành quay lại cổng phi đạo của chuyến bay về Houston.
Suốt bốn giờ bay, tôi cầm củ chuối sứ nghĩ thật nhiều về cụ. Đêm nay cả cụ lẫn tôi đều mất ngủ. Hai người tuy sống hai nơi, nhưng cùng một tâm sự. Củ chuối sứ Long-Thành. Tôi phải nghĩ cách hay để gửi lại cụ món quà ngon của dân tộc mà vô tình một lần cụ đã tặng không. Lâu lâu tôi lại mở tờ báo rách ra ngắm Bác. Bác vẫn còn hờn tôi, không nói gì từ lúc được lôi ra khỏi thùng rác Mỹ.
Việc đầu tiên tôi làm khi về đến Houston là làm củ chuối sống lại. Tôi đem củ chuối ra trồng một góc vườn cuối hàng rào theo đúng truyền thống dân tộc Việt. Một lần tôi có nghe người anh họ làm nghề đọc đồng hồ nước của thành phố kể kinh nghiệm sống trong công việc làm hằng ngày:
"Muốn biết nhà nào Việt nam, nhà nào Mỹ dễ lắm. Đứng trước nhìn vào thấy mấy đôi dép nhựa Taiwan vất ở cửa và một lô xe nhật Toyota đậu bên hông là đúng. Còn đứng từ đằng sau vườn thì thấy mấy cái bếp gas để hầm phở và mấy cây chuối trồng góc vườn là đích thị ...giao chỉ."
Tôi có hỏi thêm:
"Mễ cũng có bếp gas và chuối sau vườn vậy anh."
Anh trả lời:
"Mễ cũng trồng chuối nhưng lười nên để chuối mọc tùm lum, lan khắp nơi. Việt nam thường chỉ cho mọc hai góc vườn, rất gọn."
Dân tộc tôi có nhiều truyền thống thật dễ thương và đầy văn minh. Không những biết trồng chuối, người Việt nam còn biết cách ăn chuối. Ngày còn nhỏ, mỗi lần ăn chuối tiêu, anh em chúng tôi đều phải bẻ làm đôi. Bố tôi nói ăn chuối không bẻ đôi là ăn b... ồi.