Hôm nay,  

Ngọn Thái Sơn Của Tôi

05/06/201000:00:00(Xem: 138286)

Ngọn Thái Sơn Của Tôi

Tác giả: Hạ Vũ
Bài số 2910-28210-vb7060510

Tác giả tự sơ lược tiểu sử: Trước  ở Việt Nam,  là cô giáo dạy Việt văn tại một vài trường trung học Miền Nam, nhưng chưa từng viết văn.  Khi qua Mỹ, tôi "xuống cấp" làm cô giáo Nhà Trẻ - Mẫu Giáo.   Mãi đến lúc nghỉ hưu, mới bắt  đầu viết văn làm thơ đưa lên mạng dưới vài bút hiệu để rèn luyện cho trí óc chậm thoái hóa. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của cô là  truyện  tình vui vẻ: “Nữ Cai Tù Dễ Thương.” Bài tiếp theo, viết cho mùa Father’s Day đang tới. Tựa đề bài viết là từ câu ca dao: "Công cha như núi Thái Sơn...

***                                 

Không biết lúc tôi còn nhỏ, cha tôi như thế nào nhưng từ khi tôi có chút trí khôn, tôi thấy cha mẹ tôi hơi khác với cha mẹ của mấy đưá bạn trong trường và trong xóm của tôi. Trong trường, tôi được đọc các bài văn thơ toàn ca tụng "nghiêm phụ, từ mẫu".  Trong gia đình tôi, phải nói ngược lại: "từ phụ, nghiêm mẫu" mới đúng. 
Tôi có phúc hơn một số bạn bè có cha là chiến sĩ ở chỗ cha tôi là sĩ quan không quân, không phải đi hành quân xa nhà lâu ngày, nên chúng tôi được gần gũi hơn với ông.  Ngày nào không lúc ra đi thì cũng lúc về nhà, anh em chúng tôi đều được cha tôi ôm hôn y như trong mấy phim Âu Mỹ mà tôi được xem.  Rồi thì chúng tôi bá cổ, đu vai cha tôi. Ông nhấc từng đứa lên, ôm xoay vòng vòng.  Những biểu lộ tình cảm công khai và ồn ào kiểu này hiếm thấy trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ. 
Chiều về, lần nào ông cũng có kẹo hay bánh trái cho chúng tôi. Mẹ tôi thì hay rên rỉ: "Anh ơi, đừng để chúng nó lờn mặt, khó dạy dỗ lắm." Lần nào cha tôi cũng chỉ có một câu: "Anh biết rồi.  Anh sẽ chừng mực mà."  Sau đó thì ông nháy mắt với chúng tôi, và cha con tôi tạm thời tan hàng.
Từ khi tôi vào lớp một, cha tôi là người thầy dạy vỡ lòng cho tôi tập đọc, tập viết. Ông đã viết nhiều trang a, b, c... bằng bút chì cho tôi đồ lên để tập viết, từ ngày này qua ngày khác cho đến khi tôi có thể viết một mình. Bởi vậy cho nên nét chữ của tôi hao hao giống chữ của cha tôi.
Những khi cha tôi trực đêm ở phi đoàn thì tôi phải học với mẹ. Tôi không thích học với mẹ lắm. Mẹ rất nghiêm khắc với chúng tôi, nhưng lại là một cô giáo vui vẻ, dễ mến, dễ thương ở trường. Sau này lớn lên tôi mới biết sở dĩ mẹ tôi nghiêm khắc với chúng tôi là vì cha tôi quá dễ dãi. Mẹ tôi phải đóng vai "nghiêm mẫu" để kềm bớt chúng tôi, không cho đi quá đà. 
Chưa bao giờ cha tôi la mắng hay phết vào mông anh em chúng tôi cả. Những lúc chúng tôi bị mẹ phạt hay bị nghe "giảng luân lý", cha tôi thường lánh mặt, ra ngoài sân len lén nhìn vào.  Chờ chúng tôi thi hành hình phạt được một lúc là cha tôi vào bắt chúng tôi xin lỗi mẹ.  Lần nào cũng vậy, cha nói nhỏ vơi mẹ một câu là mẹ tôi đành "tha Tào" (có nghĩa nhắm mắt bỏ qua cho, tha thứ).
Buổi tối, sau khi học bài xong là cha kể chuyện đời xưa hoặc những chuyện vui của các chú, các bác trong phi đòan cho chúng tôi nghe.  Chưa bao giờ cha kể những chuyện buồn, thương, chết chóc mà cha đối diện hằng ngày. Sau này lớn lên, tôi mới hiểu được rằng vì sinh mạng của cha treo đầu sợi tóc, nên cha lúc nào cũng giấu kỹ trong lòng chuyện buồn, chuyện chết chóc, chuyện lo âu... mà sống trọn vui với vợ con. Câu mà cha thường bỏ nhỏ cho mẹ là: "Em ơi, cho anh sống vui vẻ với con và em được lúc nào hay lúc ấy."  Một lần cha bị thương phải nằm bệnh viện. Mẹ tôi đã khóc sướt mướt trên đường đến thăm cha, làm chúng tôi cũng khóc theo. Khi thấy chúng tôi, cha đã cười lớn và nói: "Chỉ bị kiến cắn một phát thôi, làm gì mà mấy mẹ con khóc dữ vậy""  Mẹ tôi nắm tay cha lặng lẽ rơi nước mắt.  Cha tôi lại là người an ủi mẹ:
- Mạng anh lớn lắm.  Em đừng lo. Tử vi nói anh thọ đến 90 tuổi, giống ba của anh.
Chúng tôi lại nhào lên giường, níu áo lôi tay, đòi ông về nhà với chúng tôi.  Mẹ tôi phải  ngăn cản chúng tôi sợ  đụng  đến vết thương của ông.  Khi ra về chúng tôi làm trận làm thượng đòi ông về chung mới chịu. Cha lại hứa hẹn, chúng tôi mới chịu ra về.  Cha nhìn theo chúng tôi, miệng cười nhưng mắt đỏ chạch.   
Chúng tôi sống hạnh phúc bên cha tôi như thế không được bao lâu.  Tháng Tư năm 1975, cha thường xuyên ở trong phi đoàn, ít về nhà.  Mỗi lần về qua nhà, vẻ mặt ông vô cùng nghiêm trọng, và vắng đi nụ cười.  Ông thường to nhỏ với mẹ, cả hai đầy lo âu.  Hàng xóm chúng tôi có những người chộn rộn việc ra đi.  Đi đâu, tôi không biết, nhưng mà họ không màng mang theo của cải.  Họ bỏ lại nhà cửa, những đồ vật có giá trị như Ti vi, tủ lạnh, bàn ghế... Có những đứa bạn cùng xóm với tôi, hôm trước còn đi học, đột nhiên sáng hôm sau vắng mặt,  nhà cửa đóng im ỉm.  Mẹ tôi cũng thu dọn quần áo cả gia đình vào va-li, và ngóng chờ cha tôi về.  Lần nào ông về, cũng nói ít câu với mẹ rồi tất bật ra đi.
Rồi một ngày... cha tôi về nhà sớm hơn mọi hôm với dáng mỏi mệt. Cha không cười. Chúng tôi ôm lấy ông chờ đợi những nụ hôn như ngày nào, nhưng ông chỉ ôm chúng tôi và chảy nước mắt.  Lần đầu tiên tôi thấy cha tôi khóc. Tôi, lúc đó 7 tuổi rồi, biết có chuyện quan trọng vô cùng nên ông mới buồn như vậy. Hai em tôi vẫn nũng nịu đòi ông bế và hôn như mọi ngày. Cha miễn cưỡng làm theo, chợt thấy tôi đứng lặng lẽ một góc nhìn, ông ôm lấy tôi nói giọng sũng nước mắt:
- Cục cưng của ba lớn rồi.  Nếu một mai không có ba ở nhà với các con, con thay ba giúp đỡ mẹ và chăm sóc em nghe con.
- Ba đi đâu.  Con không cho ba đi đâu hết. 
- Ừ, thì ba cố gắng ở bên các con.
Thế rồi từ ngày đó trở đi, trông cha buồn và thiểu não, cha không vào phi đoàn nữa.  Các chú, các bác đồng đội của cha thỉnh thoảng cũng ghé qua nhà.  Người nào cũng mất đi dáng vẻ tươi vui ngày trước.  Vào lớp học, tôi bắt đầu nghe những chữ lạ tai: "nguỵ quân, nguỵ quyền, Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa..."  Thầy cô giáo của tôi ai cũng có vẻ mặt bơ phờ, dáng đi mỏi mệt.
Sau đó không bao lâu, vào một buổi sáng trước khi tôi và đưá em kế đi học, cha tôi ôm chúng tôi thật lâu và hôn anh em chúng tôi nhiều lần.  Nước mắt cha thấm ướt áo chúng tôi.  Cha tôi khóc. Lần thứ hai tôi thấy cha khóc.  Em tôi ngây thơ hỏi:
- Ba, chúng con ngoan lắm, sao ba lại buồn"
- Ba biết các con của ba ngoan lắm. Nghe lời mẹ và chăm học nghe các con.  Mẹ sẽ cho điểm các con. Ai ngoan nhiều ba sẽ cho quà nhiều.
Các em tôi nhao nhao:
- Chiều nay con ăn cà-rem.
- Con ăn chôm chôm.
Tôi nhìn ông và rơm rớm nước mắt.  Ông hỏi tôi:
- Trưởng nam của ba, ăn gì"
- Con không thích gì cả.  Con chỉ muốn ba vui vẻ thôi.
Ông nhoẻn miệng cười:
- Ờ...thì ba đang vui đây nè, vì ba có ba đứa con ngoan và học giỏi.
Thế rồi... chúng tôi đến trường.  Trưa hôm đó, anh em tôi đi học về, quà của chúng tôi cha đã để sẵn trong tủ lạnh.  Chúng tôi chờ ông về để ăn.  Chờ mãi đến chiều... đến tối cũng không thấy.  Mẹ tôi nói gạt chúng tôi là cha phải trực ban đêm.  Đêm về, tôi thấy mẹ không ngủ mà ngồi khóc. Lúc đó, tôi còn nhỏ nhưng cũng linh cảm chuyện gì quan trọng lắm đang xảy ra cho cha, cho gia đình tôi.  Em gái út của tôi, khóc tỉ tê đòi cha về ngủ với nó.  Tiếp theo cả nhà cùng khóc vì nhớ cha.  Chắc cha tôi cũng khóc vì nhớ chúng tôi.
Cha tôi đi một ngày, hai ngày, ba ngày... rồi một tháng, hai tháng, ba tháng... một năm, hai năm, ba năm... liên tục không về.  Cả nhà chúng tôi buồn thảm vì thiếu cha. Chúng tôi không còn những tiếng cười dòn tan ngày trước nữa.  Thỉnh thoảng chúng tôi cũng nhận được thư của cha.  Mẹ nói cha ở xa lắm, không về được. Lúc đầu, tôi ngạc nhiên vì có lần cha nói, máy bay của ông có thể bay tới bất cứ nơi nào trong nước dù xa xôi cách mấy. Tôi thắc mắc sao lần này cha không lấy máy bay lái về với chúng tôi nhưng tôi không dám hỏi mẹ, vì mẹ tôi đang buồn.  Mỗi lần nhắc tới cha là mẹ khóc. 


Lớn lên một chút nữa, tôi biết cha tôi đang bị ở tù.  Cha tôi hiền lành và vui vẻ lắm, tôi chưa thấy ông nặng lời với ai.  Cha tôi làm gì mà phải ở tù" Mẹ tôi vất vả kiếm sống.  Đồ đạc trong nhà lần lượt ra đi. Mỗi một món ra đi là mẹ khóc nhớ cha. Mẹ nhắc lại kỷ niệm của mẹ và cha gắn bó với những vật đó.  Mẹ tôi dù là "nghiêm mẫu" đi nữa vẫn là đàn bà, và vẫn chảy nước mắt nhiều lần. 
Từ ngày vắng cha, mẹ tôi ít nghiêm khắc với chúng tôi.  Khi mẹ viết thư cho cha, mẹ bắt chúng tôi cùng viết chung với mẹ. Thư của cha gởi về, cái nào cũng nói là cha khoẻ mạnh. Lần nào ông cũng nhắc nhở tôi là anh lớn trong nhà, phải giúp mẹ mọi việc lớn nhỏ, các em phải nghe lời mẹ và tôi. Cha khẳng định lúc nào cũng thương nhớ chúng tôi. Nhận được thư cha, cả nhà vui vẻ vô cùng, vì biết cha còn sống, tuy rằng sống xa chúng tôi muôn trùng.  Nhưng đêm đó, mẹ tôi ôm lá thư vào giường để khóc lẻ loi một mình.
Lớn lên một chút nữa, tôi hiểu vì sao cha tôi ở tù và ở tù khổ sở như thế nào. Tư trang của mẹ tôi bán hết thì tới ti vi, tủ lạnh, tủ thờ, bàn, ghế... vĩnh biệt chúng tôi, mà cha thì vẫn biền biệt ở núi rừng Trung du Miền Bắc.  Hè về, mẹ đi thăm nuôi cha, tôi phải ở nhà trông nom, cơm nước cho hai em, và mưu sinh với những tấm vé số.  Trước nhà, mẹ tôi đặt một cái bàn để bán vé số.  Tôi và đứa em kế thay phiên nhau bán phụ mẹ những lúc không ở trường. Tôi nhớ tới câu ca dao mà mẹ tôi đã từng hát ru cho em tôi ngủ  khi còn bé mà đau xót và nhớ thương ông vô cùng:
"Còn cha gót đỏ như son,
Đến khi cha mất, gót con đen xì."
Ngày xưa, có cha bên cạnh, tuy rằng cha phải đối diện với lằn tên mũi đạn hằng ngày, nhưng chúng tôi chưa từng thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ như thế này.  Cơm tuy không cao lương mỹ vị nhưng đủ ăn mà còn có thịt cá ngon lành, áo quần chẳng những đủ mặc mà còn mặc đẹp.  Không khí gia đình chúng tôi vui vẻ, đầm ấm. Bây giờ chỉ còn một mình mẹ bên cạnh, tôi cảm thấy hụt hẫng.  Bốn mẹ con tôi thiếu đi một điểm tựa vững chắc trong đời. Có nhiều lúc tôi thấy cần vô cùng một người cha bên cạnh để được tâm sự.  Nhìn những đứa trẻ khác có cha bên mình tôi thèm thuồng vô hạn.
Sau mười năm bị đày ải trong lao tù, cha tôi được ra về với thân xác còm cõi, gầy đét, đen đúa, tay chân chai cứng.  Ngày xưa, cha tôi đẹp trai và oai phong biết bao. Cha là thần tượng của tôi. Đã có nhiều lần cha hỏi tôi:
- Cục Cưng của ba, lớn lên làm nghề gì nào"
- Con sẽ lái máy bay giống ba vậy.
- Lúc đó, hết chiến tranh rồi. Kiếm nghề khác làm đi, con.
- Không, con chỉ thích giống ba thôi.
- Ừ, cũng được. Nhưng phải hơn cha mới là nhà có phúc.
Bây giờ hết chiến tranh rồi, nhưng tôi không bao giờ được lái máy bay để bảo vệ vòm trời Tổ quốc như cha tôi.  Tôi đang ngồi bán vé số đây, không biết tuơng lai rồi ra sao. 
Trước viễn ảnh tôi bị gọi đi nghĩa vụ quân sự, và bị đưa đi Campuchia để  xâm lăng nước láng giềng và bỏ thây nới xứ lạ, cha tôi tìm cách đưa tôi cùng vượt biên với ông.  Cha tôi có người cùng quê cần người biết xem hải đồ và định tọa độ, nên cho cha tôi đi miễn phí.  Cha tôi đã nài nĩ chủ ghe thêm tôi đi cùng. Nhiều lần nằm bờ, núp bụi, lội sình, lội sông, ém bãi... thất bại hoàn thất bại, lại thêm các trại tị nạn đóng cửa, cha tôi đành bỏ cuộc, lo đi theo diện H.O. 
Trong thời gian chờ đợi, cha lo chuyện kiếm sống, bắt tôi lo việc học hành, bỏ bán vé số.  Nhìn dáng cha ốm yếu, gầy còm đạp chiếc xe cũ kỹ "chạy sô" dạy Anh văn tư gia, tôi thật muốn bỏ học để cùng cha mẹ lo cho gia đình. Cha nhịn  ăn, nhịn mặc gom góp tiền "cúng" cho bọn chính quyền điạ phương để hoãn nghĩa vụ quân sự cho tôi,  tôi vô cùng chua xót.  Có những buổi tối về tới nhà, cha uể oải, ngồi vào bàn cơm đạm bạc, tôi đau lòng. Đã vậy cha còn dạy thêm cho anh em chúng tôi Anh văn.  Tuy thế, tôi chưa thấy cha tôi lớn tiếng hay nặng lời với ai, lúc nào  ông  cũng ăn nói hoà nhã, vui vẻ với mọi người.
Rồi cũng tới những ngày chúng tôi sắp rời bỏ quê hương xóm làng, bỏ người thân và bạn bè để đi Mỹ.  Từ đây không khí cả nhà tôi ảm đạm.  Quê hương này cha tôi đã từng đổ máu để bảo vệ mà đành phải bỏ lại ra đi.  Còn ông bà nội tôi nữa.  Ông bà tôi già lắm rồi, bỏ lại ông bà cũng là một quyết định đau lòng của cha tôi.  Tôi biết cha tôi đã chọn tương lai của chúng tôi mà đành đoạn bỏ lại quê hương và cha mẹ. 
Cả tháng trước khi đi, cha tôi nhiều lần ngồi hằng giờ và nhắc kỷ niệm ngày cha còn bé với ông bà nội. Cha tôi là người vui vẻ lạc quan là vậy mà ngày ra phi trường Tân Sơn Nhất, tôi thấy mắt cha tôi đỏ hoe.  
Ở nước người, cha là cột trụ gia đình.  Lúc đầu, ông làm hai việc một lúc: một toàn thời gian ở một xưởng điện tử và một bán thời gian làm vệ sinh cho một clinic cuối tuần, để cho chúng tôi vào trường học.  Anh em chúng tôi được nhà trường và xã hội Mỹ giang rộng tay đón nhận, đùm bọc.  Chúng tôi vừa học vừa làm để đỡ đần phần nào cho cha mẹ.  Chả bù vào ngày xưa ở VN, cha con tôi muốn tìm một việc làm mà không ai mướn.  Mẹ tôi bị bắt buộc thôi dạy học khi nộp đơn đi nước ngoài vì "ôm chân đế quốc, tư tưởng không vững vàng, không thể dạy học trò yêu nước yêu Xã Hội Chủ Nghĩa được".  Còn mấy anh em tôi bị bà hiệu trưởng Bắc Kỳ 75 buộc thầy cô chủ nhiệm của chúng tôi đánh giá đạo đức trong học bạ từ hạng tốt xuống trung bình vì "tội" theo cha mẹ "ôm chân đế quốc".
Khi qua Mỹ, tôi vào ngay Đại Học Cộng Đồng được hưởng chương trình giúp đỡ cho sinh viên thuộc gia đình có lợi tức thấp là Financial Aid và Work Study. Hai em tôi vào trung học.  Anh em chúng tôi quyết tâm vượt lên trong xã hội mới này nên nỗ lực, chuyên cần học hành.  Ngay cuối năm học đầu tiên, hai em chúng tôi nhận được những lời khen ngợi không ngớt của thầy cô giáo. Có một câu nhận xét và phê bình của người thầy Mỹ về đứa em học lớp 12 làm chúng tôi nhớ đời.   Đó là câu: "Em... tiến bộ vượt bực.  Gương học tập này đáng để cho cả chính tôi noi theo."  Thầy noi gương trò, nếu trò làm tốt, nếu trò là gương sáng!  Một nhận xét phê phán bình đẳng, trung thực, không bị chi phối bởi chính trị, bởi lý lịch, bởi cha mẹ làm con bị ảnh hưởng lây như ở trường học XHCN VN.  Chả trách đất nước người tiến bộ như thế mà ta tuột hậu là vậy.
Dần dà cuộc sống của gia đình tôi được ổn định. Cha tôi tìm được một việc khá hơn.  Có thì giờ rỗi rãnh, cha tôi tìm gặp lại bạn bè cũ, và tham gia các công việc trong Cộng Đồng như gây quỹ giúp trẻ mồ côi, thương binh VNCH còn đau khổ ở trong nước, tham gia những cuộc biểu tình đòi hỏi tự do, nhân quyền, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam. 
Cha tôi ở bên này bờ Thái Bình Dương mà tấm lòng ông để lại ở bên kia bờ. Vào những ngày lễ hội, cha thường dẫn anh em chúng tôi cùng tham dự.  Cha tôi mong muốn chúng dù tôi ở quê người vẫn không quên nguồn cội và mong mỏi một ngày nào đó, khi cha không còn bên cạnh chúng tôi, chúng tôi sẽ tiếp tục công việc dang dở của thế hệ ông. Ông thường nói với chúng tôi thế hệ của ông đã không làm tròn trách nhiệm và bổn phận với quốc gia dân tôc, đã để đất nước lọt vào tay Cộng Sản khiến dân tộc lầm than, mất những tự do căn bản của con người, đất nước tụt hậu, mất đất, mất biển mà tổ tiên đã đổ xương máu cả hàng ngàn năm nay để bảo vệ.  Bây giờ gánh nặng nước non này để lại cho thế hệ cháu con. Thật là một gánh quá sức nặng! 
Bởi thế cho nên bây giờ còn hơi thở ngày nào thì ông còn phải trả nợ cho nước non dân tộc ngày đó theo khả năng của ông. Cha tôi đã phấn đấu, kiên cường trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Mỗi khi tôi gặp trắc trở trong đời, cha tôi là tấm gương để tôi vươn lên, ngẩng cao đầu mà tiến bước.
Bây giờ thì ông già yếu lắm rồi, đi phải có gậy chống, và đầu óc không còn minh mẫn nữa, nhưng cha tôi vẫn là tấm gương sáng để tôi noi theo, vẫn là cột trụ vững chắc cho tôi dựa. Ông là ngọn Thái Sơn của anh em chúng tôi. 
Nhân ngày Father's Day, tôi viết bài này để vinh danh cha tôi, người cha trọn đời sống vì đất nước, dân tộc, và gia đình, cũng để nói lên tình yêu thương vô vàn, lòng tôn kính không cùng của anh em chúng tôi đối với Cha Tôi. 
Hạ Vũ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,308,170
Từ hôm nay, Thứ Hai 1 tháng Bảy 2019, bắt đầu phổ biến các bài Viết Về Nước Mỹ năm thứ Hai Mươi Mốt (XXI). Xin mời đọc bài viết mới nhất của Lê Nguyễn Hằng, một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết.
Từ hôm nay, Thứ Hai 1 tháng Bảy 2019, bắt đầu phổ biến các bài Viết Về Nước Mỹ năm thứ Hai Mươi Mốt (XXI). Xin mời đọc bài viết mới nhất của Lê Nguyễn Hằng, một cây bút nữ kỳ cựu tham gia Viết Về Nước Mỹ từ nhiều năm qua. Năm 2017, với bài viết “Ba Người Đàn Bà Tuổi Dậu”, bà nhận giải Vinh Danh Viết Về Nước Mỹ. Bài đăng 2 kỳ.
Giải Viết Về Nước Mỹ hàng năm gồm các bài phổ biến từ ngày 1 tháng Bẩy năm trước tới 30 tháng Sáu năm sau. Hôm nay, Chủ Nhật 30 tháng Sáu 2019, ngày khóa sổ Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20, xin mời đọc bài viết vui của Ngọc Hạnh, vị tác giả niên trưởng trong năm. Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng Hai 2019, khi tuổi đã kề ngưỡng cửu tuần (90. ) Với bài viết về Washington D,C. mùa lễ chiến sĩ trận vong và Bức Tường Đá Đen khắc tên các tử sĩ trong cuộc chiến Việt Nam. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh, trước 1975 đã là giáo sư trung học đệ nhị cấp tại Saigon. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, và hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Kính chúc Bà vui khỏe.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh hoặc tài liệu do ông thực hiện hoặc sưu tập. Sống động, cũng chẳng ngại sống sượng, bài viết của ông thường gây nhiều chú ý và bàn cãi. Một số đã được in thành sách "Xin Em Tấm Hình" và tập truyện mới, "Bắc Kỳ". Sau đây, thêm một bài mới viết mới.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Bà tên thật là Ngô Phương Liên, học Trưng Vương thời trung học, vượt biển qua Mỹ năm 79. Đi học lại gần 6 năm mới ra trường với bằng BS engineer năm 85. Hiện là cư dân ở Lafayette, Louisiana, còn vài năm nữa sẽ ... ăn tiền gìa. Bút hiệu Pha Lê, theo chú giải vui của tác giả, không phải là trong veo như Pha Lê, mà là... Pha trò và Lê la! Sau đây là bài viết thứ sáu của bà.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20. Bà tên thật Trần Ngọc Ánh sinh 1955, sau khi đi tù gần 11 năm về tội chống Cộng Sản từ đầu 1979 đến cuối 1989, đã tốt nghiệp Đại học năm 1995 ngành Quản trị kinh doanh tại VN. Sang Mỹ định cư theo diện kết hôn năm 2007, hiện đang sống tại thành phố Victorville, miền Nam California. Nghề nghiệp nội trợ. Sau đây, thêm bài viết mới của bà.
Tác giả dự Viết Về Nước Mỹ từ 2004. Võ Phú là tên thật. Sinh năm 1978 tại Nha Trang-Việt Nam; định cư tại Virginia-Mỹ, 1994. Tốt nghiệp cử nhân Hóa, Virginia Commonwealth Uni-versity. Hiện làm việc và học tại Medical College of Virginia. Sau 12 năm bặt tin, tác giả tiếp tục Viết về nước Mỹ từ 2016, với sức viết mạnh mẽ và thứ tự hơn. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả là một viên chức hưu trí tại San Jose, đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ năm 2018. Tháng Năm 2019, trong bài “Tôi Làm Răng Implant” tác giả có viết lời cám ơn Bác sĩ Nha Khoa Nguyễn Hoàng Tuấn về sự tận tâm giảng giải và chăm sóc dành cho bà. Sau đây là bài viết mới nhất của bà, chuyện người thật việc thật. Tựa đề là một câu trong bài hát “Như Đã Dấu Yêu” của Nhạc Sĩ Đức Huy.
Tác giả đã nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ từ 2001 và liên tục góp bài. Sau nhiều năm tham gia ban tuyển chọn, từ 2018, Trương Ngọc Bảo Xuân là Trưởng Ban Tuyển Chọn Viết Về Nước Mỹ. Bài trích từ báo xuân Việt Báo Tết Kỷ Hợi 2019.