Người Mẹ
Tác giả: Người Nại
Bài số 2889-28189-vb5051210
Tác giả cho biết ông họ Trình, quê Phan Rang, Ninh Thuận, nguyên sĩ quan Không Quân VNCH, 7 năm tù, định cư tại Mỹ diện H.O. 14, từng là Cựu Chủ Tịch Hội Ninh Thuận (như tác giả Phạm Hoàng Chương). Trước đây, ông từng có bài viết về Người Cha, với một bút hiệu khác. Sau đây là bài viết về Mẹ.
***
-Mẹ ơi! Con đã về đây... con về rồi nè.
Tiếng thầm thì bên tai người mẹ đã trên 90 tuổi, đột nhiên đánh thức trí nhớ khiến bà nhận ra Hoàng. Đôi mắt bà cụ chợt sáng lên nhìn chằm chặp người con, đứa con trai sống tha hương đã nhiều năm tại Hoa Kỳ, vừa vượt đại dương xa ngàn dậm trở về thăm nhà. Không còn cái vòng tay âu yếm để đón người con, cũng không còn những lời hỏi han vồ vập của người mẹ như cách đây 18 năm. Bà chỉ khẽ chớp đôi mắt đang ngấn lệ nhòa và gật đầu. Hoàng bỏ hành lý xách tay nặng nề xuống nền nhà, ôm vai người mẹ kính yêu đang ngồi tựa vách nhà, khe khẽ lắp bắp "Con nhớ mẹ nhiều lắm...!"
Hoàng nghẹn ngào xúc động thấy mẹ mình nay đã già yếu nhiều! Mái tóc cắt ngắn, bạc trắng phau như mây trời được che phủ dưới một khăn choàng sọc rằn màu xanh dương túm gọn rất khéo léo phía trên, khuôn mặt đầy những vết nhăn dài hằn trên vầng trán, miệng túm nhỏ lại trông móm xọm vì bà đã không còn cái răng nào để có thể cười nói vui vẻ như cách đây vài năm. Đôi mắt bà đã mờ mờ trắng đục lẫn với nước mắt đong đầy vì xúc cảm mừng rỡ. Thân thể như thấp bé lại khi tuổi hạc đã cao, lưng bà khòm cong lại vì suốt ngày nằm trên võng đong đưa. Bà thường hay gồng gân cổ cho cái đầu ngóc cao lên để quan sát người ngoài cỗng ra vào nhà.
Ba của Hoàng mất cách đây đã hơn 8 năm và hiện tại mẹ Hoàng đang được các em và cháu ở nhà kế bên đến chăm sóc ngày. Ngôi nhà từ đường mà bà đang cư ngụ và nhà của em trai Hoàng ở gần nhau trong một khuôn vi rộng lớn. Nhà em Hoàng ở cạnh bờ sông Nại, bên kia sông là làng Tân An với nóc nhà thờ cao vút màu đỏ mới xây cất lại nguy nga đồ sộ, không gian trống trải nên không khí mát mẻ, gió biển từ xa thổi lồng lộng ngày đêm.
Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy ăn sáng ở nhà chính xong là bà lò dò bước lần qua nhà người em để nằm trên cái võng đan bằng dây đay mềm mại. Bà tự từng bước đi chậm rãi, lê lết và gắng giữ thăng bằng khi di chuyển, tuy nhiên bước chân của bà như có vật gì trì kéo xuống nặng nề khiến bà không thể nhấc cao và mắt không thấy rõ các chướng ngại phía trước nên dễ bị té ngã. Do đó mỗi khi bà đứng dậy và sắp sửa bước chân đi là các em cháu của Hoàng túc trực quan sát theo dõi để giúp bà đứng vững. Hoàng thật ái ngại khi thấy bà cố gắng bước đi thật nhanh một cách không an toàn, không cần ai giúp đỡ hay dùng một phương tiện gì như cây gậy... để chống đở giữ thăng bằng. Chăm sóc người cao niên tại quê nhà thật sự thiếu nhiều phương tiện khoa học kỹ thuật y tế như ở Hoa Kỳ!
Những ngày chăm sóc mẹ, Hoàng ngạc nhiên thấy bà rất là hiền dịu, luôn yên lặng và khi có ai hỏi, chỉ nhỏ nhẹ trả lời một cách ngắn gọn, đôi khi còn ngụ ý khôi hài, ngộ nghĩnh. Vì sức yếu, hằng ngày bà không kiểm soát được khi đi tiểu tiện nên phải nhờ con cháu giúp đỡ, nhưng bà không một lời than thở. Mẹ Hoàng không rày la một người con, dâu, rể, người cháu nào trong ngày. Ai cho ăn cái gì cũng được, không đòi hỏi và nếu không thích món ăn này hoặc đã ăn no đủ, bà chỉ lắc đầu ra dấu. Nhiều bạn bè của Hoàng đến thăm bà đều khen ngợi và ước ao cha mẹ họ khi về già cũng có những tính nết như bà. Để thử nghiệm trí nhớ của mẹ, Hoàng hay hỏi đố vui. Chẳng hạn như, Hoàng có hai người cậu đã mất cách đây vài năm và đã được chôn cất tại núi Cà Đú, PhanRang, Hoàng hỏi bà, "Má biết cậu Bảy đang ở đâu không"" Bà trả lời, "Chết rồi!" Hoàng hỏi tiếp, "Vậy cậu Bãy chôn ở đâu"" Bà đáp, "Ở Cà Đú." Câu trả lời rất đúng và chính xác. Hoàng hỏi tiếp, "Còn cậu Chín đang ở đâu"" Bà đáp, "Đi lính rồi!" rồi bà chúm chím cười. Hoàng bật cười khi thấy mẹ trả lời rất ngộ nghĩnh thông minh, hình như trí óc bà đang có sự lẫn lộn nào đó, hay cố ý khôi hài cho vui câu chuyện...
Sự thật người cậu thứ Chín của Hoàng ngày xưa có đi lính Quân Y và làm việc ở bệnh viện PhanRang trước 1975, nhưng nay đã mất và chôn ở núi Cà Đú; Có thể bà không muốn lập lại câu trả lời "núi Cà Đú" mà muốn dùng từ "Đi lính" để diễn tả sự qua đời. Tại làng Nại, danh từ "đi bán muối", "đi Pháp", "đi Cà Đú" hay "đi lính"... đều được nhiều người hiểu ngầm là đã chết, đã qua đời. Do đó khi thấy mẹ đáp những câu ý nghĩa vậy, Hoàng nghỉ rằng tâm trí bà có lúc rất tỉnh táo minh mẫn, tâm thức vẫn còn nghe, thấy biết và hiểu đồng thời còn tìm cách làm vui câu chuyện (người đời gọi là "hề".)
Hoàng và các em của Hoàng cũng thừa hưởng năng khiếu tiếu lâm, nói "hề" của mẹ khi đối đáp với bạn bè, người thân... cho vui câu chuyện. Hoàng tiếp tục trắc nghiệm trí nhớ của mẹ bằng nhiều cách khác nữa, như đưa tấm hình của chàng cho mẹ xem, đố là ai" Bà nhanh nhẹn trả lời và khẳng định nhiều lần bằng tên của đứa con trai lớn của Hoàng, "thằng cu Bách". Hoàng và con trai lớn của chàng không giống nhau đến độ để bà cụ có thể nhầm lẩn nhưng có lẽ bà có ý gì đây, hoặc bà biết là Hoàng, nhưng lại nói chệch qua tên đứa cháu nội hiện đang ở Hoa Kỳ cho vui.
Thấy bà yên lặng suốt ngày, con cháu luôn quây quanh chăm sóc, hỏi han khơi chuyện này, chuyện nọ để bà nói cho vui, hỏi đố tên người này người kia... và đây là một cách để tập luyện các bắp thịt miệng, lưỡi hoạt động bình thường cho những người cao niên khi họ không còn khả năng phối hợp điều khiển thị giác, trí óc, cùng lời nói của họ. Nhìn thấy tâm trí và thể xác không còn điều khiển bén nhạy như cách đây vài năm vì tuổi hạc người mẹ đang đi vào thời kỳ bách niên (trăm tuổi), Hoàng bâng khuâng tiếc nuối thời gian đã qua quá nhanh, đã thay đổi trạng thái tâm trí và hình thái của người mẹ, một người đã từng yêu thương, chăm sóc lo lắng che chở cho chàng.
Nhớ lại khoảng thời gian từ 3 đến 10 tuổi, Hoàng rất là khó nuôi vì thể xác yếu đuối, thường xuyên bị bệnh nhất là Thương Hàn, một căn bệnh nan y của thập niên 1950. Tại thôn quê như làng Nại, người dân thường chữa trị bệnh theo phương pháp Đông Y, dùng thuốc gia truyền. Mẹ của Hoàng cũng đã mời rất nhiều thầy thuốc nổi tiếng ở các thôn xóm gần đó để chữa trị nhưng bệnh không thuyên giảm, nên bà đã dùng những phương pháp không có trong sách vở Đông Y như đem ký bán Hoàng vào một Am Miếu nhỏ trong làng (ngôi miếu có thờ nhiều hình tượng Phật). Ký bán là một hình thức hợp đồng, giao kèo giữa người cho và thần linh, họ cho tên họ mới, đứa con của mình từ nay trở thành con của Thần, Thánh, Tiên, Phật... tại Am, Miếu hay Chùa đó, theo quan niệm của ba mẹ Hoàng lúc ấy. Trong thời gian ấy, suốt ngày, Hoàng phải ngồi dưới Đại Hồng Chung to lớn nơi chính điện để lắng nghe tiếng kinh kệ ê a của các vị sư già tụng niệm trì cứu giải nạn. Tiếng chuông ngân vang rền khắp chùa, vọng vào cõi hư không như nhắc nhở, đánh thức nơi vùng tâm linh của chàng!
Rồi cũng chưa hết bệnh hoạn, ba mẹ Hoàng lại cho chàng đến ở thôn xóm khác, một người mẹ không phải ruột thịt nhận Hoàng làm con nuôi và nuôi một thời gian ngắn để rồi sau đó được chuộc lại về nhà (như đem tiền chuộc lại một món đồ yêu thương đã bị mất) nuôi dưỡng tiếp. Bà đã thường thắp nhang khấn vái các Đấng Thần linh, Trời, Phật... phù trì cho Hoàng tai qua nạn khỏi. Bà đã bao đêm sớm hôm thao thức chăm sóc thuốc thang cho chàng, ngồi châm lửa, quạt bếp lò than hồng cho những thang thuốc Bắc cạn dần đúng theo lời căn dặn của người thầy Đông Y. Thật sự, lúc ấy Hoàng quá nhỏ bé, trí óc non cạn nào có biết đến nỗi ưu tư lo lắng và lòng thương yêu của ba mẹ đối với chàng như thế nào. Sau này, khi định cư ở một nơi xứ sở văn minh tân tiến về Y tế, có gia đình, có con cái đã khôn lớn, chàng mới thông hiểu cảm giác làm cha mẹ khi phải lo lắng săn sóc con cái mình những lúc ốm đau.