Hôm nay,  

Mùa Xuân Trong Trái Tim

23/03/200800:00:00(Xem: 179109)

Người viết: Hy Vũ

Bài số 2257 -1631-34-vb8230308

Tác giả Hy Vũ lần đầu dự Viết về nước Mỹ, bài viết chuyển tới qua điện thư. Mong Hy Vũ tiếp tục viết và vui lòng bổ túc địa chỉ liên lạc và sơ lược tiểu sử.

Chiều ba mươi Tết dì Thắm đi làm về. Dì cho xe vào garage rồi hì hục xách vào nhà những giỏ xách nylon nặng chĩu. Tôi đang lúi húi trong bếp coi nồi thịt heo kho tàu đang sôi. Dì Thắm hỏi vọng vào:

- Hôm nay con không đi làm ha Thủy" 

- Con có đi làm, nhưng về sớm lúc ba giờ, ghé chợ mua vài món. Tết nhất rồi, có làm thêm vài giờ cũng vậy. Về sớm chút sắm sửa ăn Tết chứ dì.

Dì Thắm soạn mọi thứ ra bàn. Dì thở dài:

- Tết nhất ở Mỹ chán phèo. Ngày Tết phải đi làm. Xin nghỉ họ chẳng cho. Lấy vacation cũng không được. Trong nhà thì thấy Tết, mà ngoài đường không thấy dấu hiệu gì là Tết cả. Ở cái cứ này là như vậy, chỉ có lễ Giáng sinh là nhộn nhịp nhất gần cả tháng cho đến đầu năm sau, Tết tây cũng không bằng.

Tôi bước đến bàn trầm trồ:

- Dì mua nhiều thứ quá. Đủ loại mứt, rồi bánh toét, bánh chưng, củ cải, củ kiệu, hạt dưa, dưa hấu, trái cây....nhiều ghê đi. Hồi chiều con lại mua nhiều thứ nữa. Năm nay hai dì cháu mình ăn Tết mệt nghỉ hả dì" 

Dì Thắm cười:

- Có gì là nhiều đâu con. Mình ăn Tết vẫn bị thu hẹp, chật vật lắm đó. Vừa ăn Tết vừa đi làm chẳng có gì thích thú đâu bằng ở Việt Nam mình chuẩn bị ăn Tết trước cả tháng. Họ thong thả nghỉ ngơi nhiều ngày đầu Xuân, dựng nêu, đốt pháo, cúng kính, ăn uống, bài bạc, du Xuân vui thích lắm con ạ!

- Tháng giêng là tháng ăn chơi mà lị!  Dì thường nói thế. Năm nào có dịp dì cháu mình về Việt Nam ăn Tết nhen dì.

Dì Thắm thoáng nét buồn:

- Ừ nhỉ!  Nhưng dì cháu mình đâu còn ai, nhà cửa thân nhân không còn, ăn đâu ở đâu mà về.

- Mình ở phòng ngủ, rồi ăn Tết như mọi người cũng vui lắm đó dì. Dì thấy sao" 

- Thôi được rồi. Chuyện dành lại cho năm khác. Dì đi thay quần áo tắm rửa, còn phải nấu nướng cúng kiếng.

Năm nào cũng vậy cứ chiều ba mươi Tết hai dì cháu đi chợ mua sắm cúng kiếng ăn uống, chờ đợi đón giao thừa. Ngôi nhà nhỏ chỉ có hai phòng ngủ, một phòng khách. Bếp núc, ăn uống dồn chung một phòng. Nhưng khi cúng kính lại chẳng có bàn thờ. Mỗi lần như vậy dì Thắm di chuyển bàn ăn để giữa phòng khách. Trên đó dì trải chiếc khăn bàn trắng, bày biện bình hoa, đĩa trái cây, một cặp đèn sáp màu đỏ tươi cắm trên hai chân đèn nhỏ bằng đồng đen, cái lư hương bằng đất nung sơn son thếp vàng mua ở chợ tàu, lọn nhang thơm, chai rượu, gói thuốc lá, cặp ly nhỏ, hai bộ tách cúng nước. Dì trịnh trọng đặt khung ảnh của chồng giữa bàn. Người trong ảnh còn rất trẻ, khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, đôi mắt sáng, mặc quân phục. Dì Thắm bảo chồng của dì ngày trước là sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi Việt cộng cưỡng chiếm miền Nam, chế độ Saigon không còn nữa, chồng dì bị bắt vào tù. Bốn năm sau chồng dì vượt ngục, không may bị Việt cộng bắn chết ngay trong đêm giao thừa. Những điều dì Thắm nói tôi nghe loáng thoáng mơ màng, không hình dung và nhận thức rõ được vấn đề. Vì ngay khi miềm Nam sụp đổ năm 1975 tôi chỉ mới hai tuổi có biết gì là chiến tranh, là việt cộng, là quốc gia, là quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi nhớ khi tôi lên sáu tuổi thì ba mẹ tôi bỏ nhà cửa, ba dẫn mẹ và tôi đi vào một đêm tối trời, rồi lại xuống tàu đi trên biển rất nhiều ngày. Tôi bị ói mửa ngầy ngật mê man không còn biết được gì xảy ra. Và sau đó, tôi lại được dì Thắm cưu mang nuôi dưỡng tôi.

Lời dì Thắm kể, lúc đó dì vượt biên đi cùng tàu với ba mẹ tôi. Tàu vượt biển bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp. Mẹ tôi bị mấy tên hải tặc thay phiên hãm, mẹ phản kháng kịch liệt bị chúng giết chết rồi ném thây xuống biển. Trước tình huống ấy ba tôi nhảy vào cứu mẹ tôi cũng bị chúng hạ sát ném thây xuống nước. Dì Thắm cũng không thoát khỏi những tên hải tặc luân phiên làm chuyện đồi bại, dì ngất xỉu chết giấc. Hai ba ngày sau đó được tàu lớn đến tiếp cứu đưa về đảo Pulau Bidong rồi tôi được dì Thắm cưu mang nuôi dưỡng tôi từ đó đến nay..

Mất cha, mất mẹ tôi bơ vơ giữa cảnh đời xa lạ. Những gì sau lưng tôi, dòng họ, gia đình, quê hương đất nước, chiến tranh...tôi hoàn toàn không biết một mảy may nào cả. Tôi cũng không thể kể, không thể diễn tả được một điều gì về nguồn gốc gia tộc, quê hương sinh quán hoặc gì đi nữa của đất nước tôi sinh ra cho một ai muốn hỏi. Nhưng trong tôi cảm nhận mình cũng có một Tổ Quốc, một Dân Tộc, và một cội nguồn dòng họ. Đó là Việt Nam của tôi ở tận nơi nào đó trên quả địa cầu này mà tôi chưa được một lần nhìn ngắm.

Nhờ giấy tờ hình ảnh của chồng dì Thắm là cựu sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa nên dì được xét đi định cư sau hơn sáu tháng ở đảo. Dì Thắm cố gắng hòa nhập vào cuộc sống mới. Tôi được cắp sách đến trường. Mãy năm sau dì Thắm mua được ngôi nhà này. Sau khi tốt nghiệp high school tôi nghỉ học tìm việc làm để giúp thêm cho dì trong cuộc sống của chúng tôi.

Trong ngôi nhà nhỏ này là một tổ ấm của dì Thắm và tôi. Hằng ngày dì Thắm đi làm, tôi đi học sau này lại đi làm nên hai dì cháu ít khi có nhà. Chỉ gặp nhau vào buổi tối, hoặc ngày nghỉ, ăn uống, chuyện trò, làm công việc nhà...Tôi quý dì Thắm là mẹ, không sinh có dưỡng. Dì Thắm yêu thương tôi như con ruột. Nhà ít khi có khách. Nếu có chỉ là bạn gái của dì, nên ít bị ai phá rầy giờ giấc. Tôi không muốn dì Thắm của tôi có những người đàn ông đến nhà thăm viếng. Họ có thể quấy rầy tình cảm gia đình chúng tôi, và còn làm phiền đến dì, ngay cả phiền tôi nữa. Dì là mẹ tôi, là nguồn sống hạnh phúc của tôi. Tôi không muốn phải xa cách dì Thắm để theo chồng, ra sống riêng. Vậy mà thỉnh thoảng dì Thắm thường nhắc chừng tôi:

- Ngoài ba mươi rồi, con chẳng ''rục rịch'' gì sao, cứ nhỏng nha nhỏng nhảnh suốt đời thế hả Thủy" 

Tôi cười khúc khích:

- Dì nhắc con, con OK rồi đó. Phần dì còn trẻ mà cứ ở vậy buồn chết đó dì.

Dì Thắm lắc đầu:

- Dì đâu có thích. Chỉ có dượng con ngày trước mới đáng nói. Ở xứ này có đủ vợ đủ chồng mới sống hạnh phúc, bằng không thì ở một mình vẫn hơn. Dì mà có bước thêm bước nữa cũng khổ đó con, chỉ làm tôi cho họ đủ việc, chán lắm. Dì đâu có muốn.

Tôi ngoe nguẩy:

- Thế tại sao dì thúc hối con.

- Không lẽ con cứ ở vậy suốt đời. Dì muốn có cháu cho vui cửa vui nhà.

Nói là nói chơi cho vui trong những lúc hai dì cháu ở bên nhau tâm tình thân mật. Tôi cũng chưa muốn nghĩ đến chuyện lập gia đình dù tuổi đã lớn. Tôi chỉ thích cuộc sống hiện tại với dì Thắm trong ngôi nhà nhỏ thân thương này mà thôi. Một cuộc sống hạnh phúc an bình. Xin ai đừng cướp mất dì Thắm của tôi. Tôi chỉ là đứa trẻ mồ côi được vực ra từ cõi chết trên biển sâu và được dưỡng nuôi trong vòng tay nhân ái đầy tình người của dì Thắm. Những người ve vãn, tỏ tình ong bướm với dì Thắm khiến tôi cảm thấy bực mình và ghê sợ họ. Tôi tin ở ý chí kiên quyết của dì Thắm và rất lo sợ những giây phút yếu lòng của dì. Dì Thắm đã năm lăm rồi, mà vẫn trẻ trung. Khuôn mặt đầy đặn bóng mướt. Tay chân tròn trịa mịn mát. Da thịt săn cứng. Tóc vẫn đen bóng. Dáng vẻ đài các, dịu dàng. Dì Thắm là người đàn bà có học. Ngày trước dì bảo là đã có bằng tú tài 2. Dì làm nghề giáo. Sau tháng tư bảy lăm, dì Thắm không còn đi dạy. Dì ở nhà buôn bán hàng ngoài chợ kiếm tiền sinh sống và nuôi chồng trong tù. Lập gia đình nhiều năm nhưng dì Thắm chưa được đứa con nào. Dì bảo rằng dì đã sống những năm tháng hạnh phúc vàng son bên chồng. Trong hạnh phúc tuyệt vời ấy thường có những giờ phút dì hồi hộp lo lắng và trông chừng chồng trở về sau những cuộc hành quân đánh nhau với Việt cộng. Có những đêm dì không ngủ được khi tiếng súng hai bên giáp chiến từ xa vọng về trong đó có chồng của dì. Dì chỉ biết cầu xin đất trời sự bình an cho chồng. Đánh giặc bắn giết như thế lại không sao, khi sa cơ thất thế bị Việt cộng nhốt vào tù thì bị chúng giết lúc chồng dì vượt qua hàng rào kẽm gai để đào thoát khỏi trại giam đúng vào đêm giao thừa.

Thật chuyện xảy ra không bao giờ dì Thắm tin là sự thật. Ngày mùng một Tết năm đó dì Thắm nhận được giấy báo đi nhận xác chồng. Dì ngất xỉu hằng giờ. Nhìn thi thể đầy máu me khô cứng của chồng, dì điếng người rũ liệt. Cả bầu trời ảm đạm chụp xuống người dì. Nguồn hạnh phúc tan biến. Dì ôm xác chồng khóc than tủi nhục. Thù hận - Oán hờn - Căm tức - Khốn khổ chất ngất dâng cao, kêu trời không thấu. Sau đó Dì tìm đường vượt biên, lập lại cuộc đời đã đổ nát trên quê hương thứ hai.

Dì vẫn ấp ủ và tâm sự một ngày nào đó dì sẽ trở lại quê hương nhìn rõ mặt kẻ thù đang rãy chết để thực hiện những suy tính dì hằng thao thức.

Trong tuổi lớn khôn, dì Thắm thường giảng giải cho tôi biết về bản sắc dân tộc và lịch sử đất nước Việt Nam mà tôi đã không có cơ may để được sống. Dì Thắm giúp cho tôi hiểu công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ bao la như trời biển, nhắc nhở tôi luôn nhớ đến ngày ba mẹ tôi qua đời trên chiếc tàu vượt biển tìm tự do bị hải tặc sát hại. Dì nói ba mẹ tôi và mọi người phải bỏ nước ra đi để tìm đất dung thân nơi xứ người cũng vì cái chế độ cộng sản độc tài tàn bạo ở quê nhà.

Dì Thắm nhắc nhở tôi ngày giỗ, ngày Tết phải nhớ ơn cha mẹ sinh thành.

Mỗi lần Tết đến tôi và dì Thắm đặt hai chiếc bàn song song giữa phòng khách để cúng Tết. Tôi cúng nhớ ba mẹ tôi. Dì Thắm cúng nhớ chồng của dì. Tôi xúc động khi khấn '' Con cung thỉnh hương linh ba mẹ về ăn Tết với con trong ngày Xuân này. Xin ba mẹ phù hộ cho con được bình yên. Hôm nay con đã lớn khôn và con đã hiểu đạo làm con phải nhớ ơn ba mẹ.'' Chỉ những lần như thế, miệng tôi mới được thốt lên hai tiếng ba mẹ mà tôi thèm khát nghe.

Dì Thắm trở lại công việc Tết nhất sau khi tắm rửa xong. Dì nhìn tôi đang loay hoay xả nước chậu măng khô đã ngâm mấy ngày qua. Dì nói:

- Con giỏi đó, Thủy. Con đã lo xong xoang thịt heo kho tầu. Dì giao cho con nấu nồi măng thịt nhé. Con nhớ ninh cho nhừ để thịt thấm vào măng. Phần dì lo nồi canh măng móng giò, và mấy món chiên xào theo lệ Tết nhất.

Tôi sung sướng được dì Thắm giao việc. Tôi nói líu lo:

- Dì yên tâm. Con sẽ nấu ngon hơn Tết trước. Dì ạ, năm nay con lại mừng tuổi dì. Dì lì xì con nhé!  Lì xì nhiều hơn năm ngoái nhen dì.

- Ừ... Dì sẽ lì xì cho con. Nhưng dì cũng mừng tuổi con nữa đó.

Hai dì cháu nhìn nhau cười. Dì Thắm lại nói:

- Món măng thịt kho và canh măng móng giò ngày trước, là món ăn rất ưa thích của dượng con trong những ngày đầu Xuân. Bây giờ dì không thể thiếu khi cúng dượng con, Thủy ạ!

Thì ra chồng dì Thắm ưa thích măng kho thịt, canh măng móng giò. Ba mẹ tôi có lẽ cũng thích vài món nào đó khi còn sinh tiền. Điều đó tôi lại không biết được, thật buồn cho tôi! Lớn lên giữa xứ người tôi thành thạo món ăn của người bản xứ, nhưng lại mờ mịt hương vị quê hương. Tôi học hỏi ở dì Thắm, cách gói bánh chưng, bánh tét, bánh nậm, bánh mật, bánh ít. Tôi học làm chả giò, giò lụa, giò thủ. Tôi tập tành rim các loại mứt, xào nấu các thức ăn Việt Nam. Tôi quyết nấu cho ngon các loại chè như chè hoa cau, chè thưng, chè cốm, chè trôi nước, chè kho... làm được các loại cốm, các loại bánh in... là những hương vị ngày tết phải có để cúng trên bàn thờ. Tôi phải hiểu thế nào là tục lệ tảo mộ, cúng đưa rước ông Táo, cúng giao thừa, đêm trừ tịch, tục lệ xông đất xông nhà đầu Xuân, ý nghĩa dựng nêu, đốt pháo, chúc tết, mừng tuổi, lì xì...và còn nhiều nữa những phong tục tốt đẹp của đất nước tôi.

Dì Thắm đang xào nấu những món ăn thơm ngon đậm đà. Tôi bày bánh mứt ra dĩa lớn dĩa nhỏ cùng với những tô dĩa thức ăn lên hai bàn.

Dì Thắm dặn dò:

- Con nhớ ly tách cúng nước cúng rượu. Bình trà nóng, chén nước lã súc miệng. Bao thuốc lá. Trầu cau. Chai rượu. Bình hoa. Dĩa trái cây. Nhang thơm. Giấy tiền... Người sống thế nào, người chết cũng như vậy không được thiếu. Tội chết.

Tôi hỏi:

- Bàn của dượng có đơm trầu cau không dì" 

- Có chứ!  Dù dượng con không ăn trầu cũng phải đủ lễ. Lại nữa phải có bao thuốc lá. Bàn của ba mẹ con cũng vậy. Dượng con cũng như ba mẹ con còn có bạn bè cùng về vui Tết.

Không biết ba mẹ tôi có ăn trầu hay không"   Sáu tuổi đầu có biết gì thì ba mẹ không còn ở với con. Con ở với dì Thắm không phải trên quê hương Việt Nam mà ở trên xứ người. Họ hàng thân thuộc không có. Mịt mù xa vắng quá!  Tôi miên man nghĩ ngợi và tôi muốn tỏ rõ với dì Thắm. Nhưng dì Thắm vừa đi đâu đó. Đúng là dì Thắm vừa đi ra ngoài sân và dì mở cửa bước vào. Dì nói:

- Đã có pháo nổ lạch tạch ở xa. Có lẽ mấy nhà Việt Nam ở khu Village Woodland Lakes gần đây đang cúng tất niên.

Tôi nôn nao giục:

- Mình đem pháo ra đốt đi dì để nghe hương vị Tết.

Dì Thắm phác tay:

- Chưa. Cúng vái xong mới đốt con ạ để chào mừng đón rước ông bà về.

- Hai bàn con đã sắp đặt đầy đủ, dì xem lại.

- Con lên đèn, thắp hương đi. Giờ này là tối ba mươi Tết, ở Việt Nam là sáng mùng một đầu năm. Mọi người cả nước ngưng việc để đi chùa, nhà thờ, thánh thất, lăng miếu, xin xăm, hái lộc, hoặc xuất hành đầu năm, thăm viếng chúc tết... Nhộn nhịp, tươi vui, ai ai cũng trang trọng trong bộ quần áo mới để cầu hưởng phước lộc, những may mắn suốt năm. Có múa lân thì được rước về từng nhà múa chúc Xuân, hái lộc.

Tôi vòi vĩnh nhắc lại:

- Năm nào đó mình về Việt Nam ăn Tết một lần nhen dì. Lúc đó con có cơ hội nhìn ngắm  tết của quê hương mình mà con chưa có cơ may nào được nhìn thấy.

Dì Thắm khẳng định:

- Mình về chứ. Dì sẽ dẫn Thủy về khi quê hương không còn giặc Cộng, người dân sống an bình tự do. Chừng đó con có thích thì ở lại, và dì cũng có ý định như vậy. Chịu chưa Thủy" 

- Thích quá chớ, Dì.  Con nôn nao ghê đi. Con sẽ nhìn tận mắt quê hương gấm vóc của mình ở từng ngôi nhà, con đường, khu phố, vùng quê, chợ búa, sông biển, cây cối, núi non...mà con mơ ước.

Dì Thắm đứng trước bàn khói hương nghi ngút, đèn hoa rực rỡ. Dì lâm râm khấn vái. Dì đang mời gọi chồng dì trở về vui vẻ trong ngày cuối năm để gợi nhớ những kỷ niệm hạnh phúc của thời xa xưa. Đôi mắt trong khung hình rộ nét tinh anh. Dì Thắm nhìn sâu vào khung ảnh bán thân của chồng, gương mặt rạng rỡ tràn trề khí phách của người trai thời loạn năm xưa.

Tới phiên tôi khấn vái ba mẹ. Trên bàn trước mặt tôi là đèn hoa trà quả, bánh trái rượu thịt. Tôi cầu nguyện ba mẹ thương xót đón nhận lòng  thành của đứa con trôi dạt. Tôi nhìn lên bàn thờ đặt tạm trong phòng khách lòng rưng rưng muốn khóc.

Cúng kính, đốt pháo, ăn uống xong, dì Thắm và tôi kê ghế ngoài hàng hiên chờ đợi giờ giao thừa. Đêm trừ tịch huyền diệu sâu thẳm giữa trời tối đen mênh mông. Trong sự im ắng bao trùm bóng đêm, tiếng nói của dì Thắm nghe cô đơn buồn buồn xa vắng:

- Con biết không, chiều ba mươi Tết mọi người tất bật lo nhoài người, công ăn việc làm, tiền bạc nợ nần thanh toán đâu vào đó mới an tâm ăn Tết trong sum họp người ở xa trở về với gia đình để dựng nêu, cúng kính, đốt pháo, vui chơi, trò chuyện, và canh thức suốt đêm bên lò bánh chưng bánh tét trong đêm trừ tịch.

Lời dì Thắm nói như lớp sóng cuộn trôi xa tấp. Lòng tôi chùng hẳn xuống. Hơn ba mươi tuổi đầu, tôi thiếu thốn mất mát cũng do vì đâu đưa tới.

Dì Thắm ngừng nói, cắn hạt dưa lắc cắc, dì tiếp:

- Ở quê nhà ăn Tết năm bảy ngày có khi kéo dài cả tháng nghỉ ngơi thoải mái. Phần dì cháu mình chỉ có đêm nay là xong cái Tết đó con, ngày mai mùng một cần cử kiêng hơn, lại phải đi làm, chẳng còn là Tết nữa.

- Đành vậy dì ạ. Như dì nói, con vẫn mong mình sớm có dịp được về ăn cái Tết ở quê hương  như dì và ba mẹ con đã có trước kia.

- Dì vẫn mong như thế Thủy ơi!  có lẽ cũng không xa lắm.

Đêm trừ tịch mênh mông tĩnh mịch. Ngoài kia người dân bản xứ đang tất bật trong cuộc sống hằng ngày. Nhưng ngay tại góc tối của ngôi nhà nhỏ đang có những người chờ đợi đón giao thừa, với ước vọng sớm có những mùa Xuân thanh bình ở góc trời quê hương xa xôi trong đó tình người, tình dân tộc, nền dân chủ tự do, và nhân bản mãi rực rỡ trong nắng Xuân hồng..!

Hy Vu

+++
Từ New Orleans đến Iraq

Người viết: Nhật Nguyễn
Bài số 2256 -1630-33-vb7220308

Tác giả Nhật Nguyễn, cư dân New Orleans,  là một bà mẹ có con trai nhập ngũ phục vụ tại chiến trường Iraq. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của bà được ghi là “Viết Cho Con”, kể về một gia đình gốc Việt trong thảm hoạ bão lụt Katrina tới chuyện người con trai ngoài mặt trận. Mong tác giả sẽ tiếp tục viết thêm.
 
Sáng nay, trời bỗng nhiên trắng xóa sương mù. Con đường từ nhà ra bưu điện  lác đác những cành khô gẫy như đất trời chuẩn bị cho mùa đông sắp tới. Trời cũng đột ngột đổ lạnh... 
Má xếp hàng ở quầy bưu điện. Đồ đạc gửi cho con nhiều quá. Má phải chia làm hai thùng. Thùng giấy lớn đựng hai thùng mì gói (Con thèm ăn mì gói Việt Nam, loại mì trong tô mà ớt cay thật cay. Nếu chua càng tốt. Con dặn). Một số sách của Kellerman, J. K. Rowling, John Grisham. Vài băng game hôm bữa ở nhà con chơi chưa xong (Chắc con không có giờ đâu Má, mà thôi, cứ gửi cho con, khi nào rảnh con chơi với bạn), một số kẹo chua mà hồi còn ở nhà, con ăn xong xả rác đầy phòng.


Thùng nhỏ toàn đồ gia vị. Tương đỏ, tương đen, xì dầu, hành khô thôi thì đủ thứ cho con tự nấu. Ở nhà con vẫn thường bày ra nấu cơm. Nhiều bữa con gọi về "Má ơi. Hôm nay con xào thịt bò cay kiểu Thái đó. Má không phải lo thức ăn chiều đâu nha." Má gửi thêm cho con vài bịch khô bò Bố làm lấy. Loại khô bò nầy chắc không ngon bằng loại ở Houston mà Má vẫn nhờ người bạn mua dùm, nhưng mỗi lần nhận quà, con thường gửi thư về khen lấy khen để "Ngon lắm Má ơi. Con ăn hết  rồi . Nhưng kỳ sau, làm cay hơn nữa cho con."
Má định viết cho con mấy chữ, nhưng ngần ngừ chẳng biết viết gì. Bây giờ khoa học tiến bộ quá, computer càng ngày càng tinh vi, người ta chỉ cần gõ lóc cóc vài hàng trên phím , bấm send là thư đi lẹ. Đâu như hồi xưa. Phải viết trên giấy, rồi nào bì thư, nào tem… rồi chờ đợi Nhưng nếu hỏi Má có thích kiểu gửi thư bây giờ không. Chắc là không. Nhận một bức thư và nhìn từ nét chữ của người viết, nét cong, nét lượn, vẫn thích hơn là nhưng khuôn chữ có sẵn trên computer... (Chắc là con sẽ cười, sao mà Má chậm tiến quá.)
Má rẽ qua một con đường khác trong thị xã. Con đường này sau bão, người ta mở rộng, sáng sủa hơn. Nhiều nhà  được xây mới ngó rất đẹp mắt. Đi cuối con đường, qua một khoảng sân đá banh rộng lớn là ngôi trường High school của con. Trường con vẫn còn  nguyên bãi đất ngổn ngang gạch đá bị bão đánh dập và người ta đã đập phá để xây trường mới. (Không biết bao giờ họ xây xong vì cơn bão qua đã hơn hai năm rồi và học trò vẫn phải mượn trailer của Fema đặt ở sân nhà thờ để học.) Má xuống xe đi dọc qua những hành lang còn mờ mờ đường xi măng. Dưới hàng cây Magnolia còn sống sót, Má nhớ hôm nào đây, ồ không, dễ chừng hơn ba năm, con đứng đợi Má chỗ nầy, con đi học trễ và Má phải đến trường xin phép cho con vào lớp. Con đã gắn bó với ngôi trường nầy biết bao kỷ niệm.
Cũng chỗ ngồi nầy, những ngày Má đợi chở con về sau giờ tập thổi kèn trong band, hay những ngày sinh hoạt muộn. Bên kia khán đài, mỗi cuối tuần, con chỉ huy ban nhạc chơi Football (Ban nhạc của con tên là Pirates of the Carribean, nên con thường mặc áo đỏ, hông đeo kiếm bạc và áo choàng đen phủ dài qua đầu gối. Khi con đánh nhịp cho ban nhạc chơi kèn, hai bàn tay vung cao lên xuống như hiệp sĩ Jean la Fitte chỉ huy đoàn quân lâm trận, ngó hay lắm làm Bố cười hoài.) Những ngày đông như hôm nay trời lấm tấm mưa, con qua lại giữa sân trường kia cùng bạn bè trong JROTC, diễn hành, nằm, bò chạy, leo dây đủ thứ.
Từ năm học lớp 10 con đã muốn vào lính rồi.
Cũng ở khoảng sân trường đầy bụi cát, ngổn ngang gỗ vụn, (hồi đó nó là sân cỏ xanh mượt) Bố  Má dự ngày lễ ra trường của con. Con đứng trên khán đài với 9 bạn, trai có gái có, trong áo tốt nghiệp. Con lên xuống nhiều lần để nhận đủ thứ bằng khen, Trophies. Những tràng pháo tay nườm nượp dành cho con. Hôm đó, hình như Má khóc, và Bố, mắt đỏ hoe. Cái thằng bé, mới năm nào từ Việt Nam qua Mỹ ốm nhom, trên máy bay còn ngồi trong lòng Bố, vào học lớp Một còn níu vạt áo Má khóc mà bây giờ đứng đó, chững chạc biết là dường nào.
Nhưng cũng ngay hôm đó, sau  lễ ra trường, con vào lính. Hình như đâu khoảng tháng Năm. Con, năm vào lính chỉ mới 18 tuổi.
Gần khuya, Bố Má đưa con đến khách sạn chỗ tụi con tập họp chuẩn bị sáng sớm lên máy bay. Suốt dọc đường gần một tiếng đồng hồ, con nắm chặt tay Má. Có lúc con ôm vai Má, con an ủi "Má à, hồi xưa Bố cũng đi lính vậy. Chắc là con giống Bố thôi mà."
Hồi xưa... Cũng những lần Má tiễn Bố trở về đơn vị. Giọt nước mắt thấm đẫm vai áo lính. Những lần Má vùi mặt trong ngực áo đẫm mùi mồ hôi, thuốc súng. Những lần tìm Bố ở đơn vị đứng lạc loài giữa mênh mông rừng tràm và xa bên kia đồi, bụi cát mấp mô giữa tiếng súng, tiếng đạn pháo kích tung trời. Tuổi trẻ của Bố, của Má, trôi trong cuộc chiến đầy hiểm nguy, bất trắc. Người trở lại chiến trường không biết ngày về. Một lần chia tay tưởng là lần vĩnh biệt. Tưởng rằng qua đây sẽ không còn nỗi  lo sợ  ám ảnh của chiến tranh. Tưởng rồi các con lớn lên,  học hành sống cuộc đời  bình thường như bao người khác. Vậy mà con lại chọn súng đạn thay vì sách vở...
 Rồi cũng qua ba tháng quân trường. Cả nhà cùng đi North Carolina đón con về. Ba tháng tập luyện, con gầy rọp, má hóp sâu. Con mất hơn 30 lbs đến nỗi con đứng gần mà Má không nhận ra con. Trong bộ đại lễ hôm ấy, con nói năng từ tốn, gần như nghiêm trang. Con đã thực sự là người lính. Ôi, cậu lính con của Má.
Con từ trại Huấn luyện về tháng Tám thì vài ngày sau đó, Katrina tới. Rạng sáng ngày 29 tháng Tám, cả nhà mình chạy bão. Khác những lần chạy bão trước, cảnh sát đóng đường không cho xe vào thành phố. Họ thắp những cột đuốc sáng rực hai bên đường và đóng bớt đường qua Houston, dồn tất cả loại xe lên đường 12. Hàng hàng xe nối  đuôi  nhau. Xe con chạy theo xe Bố. Chúng ta vượt qua những con đường mát rượi bóng cây, lên đồi thoai thoải, xuôi xuống xa lộ đẹp đẽ thẳng tắp lên Teneesee.
Lần chạy bão đó, từ Teneesse qua Akansas, ngược về Dallas, xuôi Houston Lần đó, không ai trong chúng ta nghĩ rằng, căn nhà mình vừa rời khỏi vài ngày sau đã chìm trong biển nước. Tin tức từ NO. lần nào con cũng hân hoan. "Nhà mình không sao đâu Má. Bão sắp qua rồi."  Cũng từ khách sạn ở Tennesse, lần đầu tiên cả nhà cùng bàng hoàng khi nhìn lên TV, New Orleans  chìm ngập trong biển nước. Còn nhà mình thì sao"  Không một tin tức gì từ Slidell. Báo chí không hề đưa tin Slidell bị ngập lụt. Chỉ một chút chớp nhoáng, người phóng viên quay cảnh cây xăng gần nhà, cột điện ngã sập và mưa gió, cây cối run bần bật Lúc đó, ai cũng hy vọng Slidell vẫn còn có một chỗ để về...
Chúng ta. Cũng còn có một chỗ để về nhưng không còn nơi trú ngụ. Hàng tháng trời, đồ đạc kéo ra từ đống bùn sình rác rưởi. Nhà nhà, rác chất thành đống dồn cục, không khí bốc mùi nằng nặng của xác thú vật, của gỗ ẩm mục, từ thức ăn hôi thối dồn lũy bao ngày. Nhà không điện, không gas. Không máy giặt, máy sấy. Ngồi từ trong nhà có thể nhìn xuyên qua ngoài đường giữa tường nhà toang hoác.
Tháng Chín.  Con đi học xa nên không ai chở em Nấm đi học. Mỗi ngày, em  đứng lọt thỏm bên đống rác lềnh khênh đế đón xe bus đến trường. Đó là những tháng năm Má tưởng mình sẽ không gượng dậy nổi.
Chúng ta đón Noel đầu tiên, sau bão, trong trailer của Fema. Hôm đó, con và anh từ Baton Rouge về. Con bày ra bàn, đây là quà của Bố, cái nầy của Má... Trên bàn bếp, con thắp những ngọn nến, ánh sáng dịu dàng tỏa lan qua nhánh thông nhỏ, thoáng trong không gian nhè nhe, tiếng nhạc Giáng sinh làm căn phòng ấm áp hẳn lên. Con bày trò chơi, chụp hình cả nhà. Hình nào con cũng nhăn mặt làm trò ngó đến tức cười. Những tấm hình đó, thỉnh thoảng Má vẫn mở ra coi lại. Để rưng rưng nhớ những ngày tháng còn thấy con nói cười gần gũi...
Tháng Tám (cũng tháng tám) con rời nhà vào trại. Từ camp Lejeune, North Carolina đến camp Pendletton, California, từ đó, con cùng đơn vị qua Iraq.
Cũng như ngày đầu con xa nhà, Má phải tập để quen dần, để chịu đựng dần nỗi nhớ, nỗi lo lắng. Má dễ dàng khóc trong bất kỳ gợi nhớ một hình ảnh, một vết tích nào. Má rất muốn mở TV, coi tin tức hàng ngày về  Iraq, muốn mường tượng nơi chốn con ở, mà lại sợ dùng dằng không dám mở... Có bao nhiêu người làm Mẹ như Má phải chịu đựng cảm giác nầy, mang trong lòng sự mâu thuẫn lộn xộn khi con họ rơi vào một chiến trường đầy chết chóc như vậy"
Con viết tiếng Việt không rành. Con viết "Hôm nay con bận làm day tho. Có phải chữ day tho viết vậy không Má" Má ngẫm nghĩ một lúc lâu, đoán hoài không biết con muốn viết chữ gì. Dãy thờ" Dạy thợ" Đầy thơ" Không, con bận rộn như vậy chắc không phải là thơ thẩn rồi. Mãi, Má mới biết con muốn viết chữ giấy tờ. Trời, con ơi là con. Tiếng Việt Nam mình nhiều nghĩa lắm. Day tho trong tiếng Việt mình chẳng có nghĩa gì hết. Con ra đời, nói tiếng Mỹ suốt ngày nên quên hết tiếng Việt Nam rồi.
Từ Iraq, con email hỏi Má "Má ơi, Bạn con hỏi New Orleans có món gì ngon"" Ngộ chưa. Chắc tụi con bên đó ăn toàn đồ hộp Ready to eat nên thèm thức ăn  nấu nóng, vừa ăn vừa hít hà phải không"  Ở nhà con hay vào bếp nhưng mới đi đó đã quên rồi. Món con thích nhất là  barbercue shrimp nấu với bơ, lá thơm, chanh, bột đỏ. Đây là món ăn gần như đặc biệt của NO, nhiều nơi họ cũng có nấu nhưng chắc không theo đúng công thức nên mùi vị không đậm đà bằng. Nhưng nếu nói là đặc biệt, rất New Orleans thì phải kể đến món Creole sauce ăn với cơm trắng và tôm, món Crawfish etouffé có mầu vàng đỏ nhạt, ăn với crawfish pie. Còn món cá sấu thì... ngon tuyệt. Thịt cá sấu trắng, dai nên khi chiên phải ướp gia vị cho thịt thấm mềm, nhúng bột chiên trong deep fry không ai biết là thịt cá sấu. Miếng thịt thơm, ngọt mềm hơn cả thịt gà.
Khi nào con về Má sẽ làm món  Barbercue shrimp cho con ăn. Má sẽ bỏ thật nhiều tôm, nhiều chanh, ớt để con khỏi than phiền "Sao mà không cay, chua chút nào!"
Rồi nhà cửa cũng dần dà ổn định. Tuần trước Má dọn phòng của con. Dù là mãi đến mùa Hè sang năm con mới về nhà nhưng Bố đã lo mua gỗ, ván chuẩn bị đóng kệ sách. Bố vẫn loay hoay không biết đóng kiểu nào cho đẹp, cho hợp với phòng ngủ của con. Bố dự định vẽ trên hết một mặt bức tường còn lại  lá cờ Việt Nam như ý thích của con, nhưng có lẽ qua Noel mới thực hiện được. Cũng còn lâu con mới về mà. Má thay cho con tấm trải giường mới, trên bàn ngủ chưng bình hoa lan màu trắng ngà điểm mấy cọng cỏ xanh, ngó dễ thương lắm. Má nghĩ là con rất thích.  Em Nấm có nhiệm vụ quét bụi hai lần trong tuần. Nó vẫn thắc mắc sao anh Khôi đi lâu mới về mà nó phải làm công việc đó sớm quá vậy.
Căn phòng của con, chỗ con ngồi chơi game, đọc sách, căn phòng ngó ra đường tràn ngập ánh sáng, vẫn luôn chuẩn bị đón con về.
Hôm nay, tình cờ Má thấy một tấm ảnh của người lính Marines trên tờ báo Time. Trên cánh tay đầy hình xâm. Một đôi giày lính, một khẩu súng và hai tấm thẻ bài. Hình xâm nhìn dữ dội và cũng khá nghệ thuật. Dù vậy, ở đó có hàng chữ "Tattoo Bans. Body art is big. But the Marines and some police are cracking down on it."
Tattoo nầy làm Má nhớ thằng bạn thân Marine của con. Kỳ nó đến nhà mình, cánh tay cũng xăm một huy hiệu Thủy Quân Lục Chiến to thật to, (sợ thì thôi ). Thấy Má nhìn, con cười cười "Má à, mai mốt con cũng..."  Má đẩy con ra, chắc vậy, hình như lúc đó Má giận con. "Con à, đâu cứ phải xăm đầy tay chân như vậy mới chứng tỏ mình là người can đảm.  You're the man. Con và bạn con hay nói câu này. Sự can đảm ở ngay chính trong bản thân của con đó. Với lại, người Việt Nam mình thường đánh giá không tốt về những người hay xăm hình nầy nọ,"  "Má à. Con nói giỡn thôi mà. Má tưởng thiệt hả!"
Cũng hôm dọn phòng cho con, Má tìm thấy trong tủ quần áo, nguyên một tập thơ bằng tiếng Anh của con. Một số bài thơ con viết tay. Má biết con thích làm thơ nhưng  không nghĩ rằng con trai của Má làm thơ nhiều đến vậy. Ôi, con trai của Má. Không biết giống ai mà tâm hồn dạt dào thơ quá sức. Giá như con hiểu và viết được tiếng Việt nhiều, trong những vần thơ kia, Má sẽ thích thú hơn. Má thích bài thơ Sunrise hơn bài My Lovely Rose. Hình như bài thơ này con viết hôm cùng gia đình đi biển. Hôm đó, con đón bình minh trên biển, trên bờ cát xô đẩy đùa theo sóng nước... Đó là tấm ảnh rất đẹp với hình ảnh con đứng lẻ loi, cô độc dưới bầu trời mây xanh thẳm, và những ngọn sóng đội đầu chồm trắng xóa.
Có phải trong cảnh sóng nước bao la ở Destin, con đã ngẫu hứng...

Sunrise

I left footprints 
on the warm sands
I can hear
the sound ot the waves,  crashed angrily against
the shore.
As if wanting to pull me
into their heartless trap
The unsettling wind rushed to envelope me in its cold touch
As I hudled and leaned against a piece of rock along the beach.
There I see now. Rising slowly above the horizon
It skillfully painted i
ts magic streaks of colors across the sky.
The magnificence
of its presence,
gave one such a feeling
That's so intangible
by thoughts,
and untouchable by words
I stood up and walked humbly down the beach
And erased by the wawes were my footprints on the beach.

Rạng đông

Tôi bỏ lại bước chân trên bãi cát
Tôi có thể nghe, quanh tôi
Âm thanh cuồng nộ của sóng đập vào bờ đá
Những âm thanh giận dữ
Xô đẩy tôi
trong chiếc bẫy vô hồn
Đứng một mình co ro
dựa vào ghềnh đá
Đâu đây, tiếng gió xôn xao
Thổi choàng quanh tôi
Mênh mông hơi nước biếc.
Ở đó. Trước mắt tôi.
Mặt trời từ từ vươn lên
đường chân trời.
Thật tuyệt vời.
Muôn nghìn mầu sắc chao lượn trên  cao
Rực rỡ
Tôi chỉ có thể cảm nhận
Sự tuyệt diệu vô cùng
của tạo hoá
Mà không ngôn ngữ nào
có thể diễn tả được
Tôi đứng đó
Và bước chầm chậm trên biển
Những bước chân của tôi
Sóng biển cuốn mất tự lúc nào.

Con ơi, bên đó có thường theo dõi  tin tức không" Cali vừa bị một trận cháy rừng kinh khủng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Hàng triệu người phải di tản khỏi thành phố, hàng nghìn nhà bị cháy rụi và theo tin tức, có đến hơn ngàn người chết. Cảnh tạm trú cũng giống như kỳ mình chạy bão Katrina, nhưng ở đây, họ tổ chức tập trung qui mô hơn. Họ ở trong những chiếc lều tạm và thức ăn thì được Chính Phủ cung cấp kịp thời. Họ mất hết mọi thứ y hệt như chúng ta. Họ phải làm lại từ đầu trên đống tro oan khiên đó. Tội nghiệp cho họ. Tội nghiệp cho chính  chúng ta. Nhưng rồi họ cũng phải đối mặt để đứng lên vượt qua như chúng ta từ hai năm trước. Dù sao, trong thiên tai mới thấy là chính phủ Mỹ đã lo lắng tận tình cho người dân như thế nào. Má nghĩ, không quốc gia nào trên thế giới này có thể lo được cho dân của họ như đất nước nầy.
Vậy mà khi Cali đang cuống cuồng lo cháy rừng, một số những người lính cứu hỏa chết cháy khi đang thi hành nhiệm vụ thì New Orleans lại tổ chức Voodoo Festival (Voodoo: black magic - ma thuật.) Những ông đồng bà bóng ăn mặc quái dị, mặt vẽ rằn ri như thổ dân uống rượu ca hát nhảy múa trên đường. Thành phố nầy, dù đã hơn ba trăm năm thành lập, vẫn còn nặng nề thế giới ma thuật huyền bí. Họ mê tín đến nỗi, phải cầu ông bà thần linh cho họ lá bùa yêu, làm hình nhân đâm kim xuyên tim để trả thù tình địch, vẽ ngoằn nghoèo vài ba chữ trên tờ đô la bỏ trong bóp tiền cầu may mắn. Nhưng, một số trong đám phù thủy đó, là những người  lừa bịp. Ở Việt Nam mình cũng có bùa phép, nhưng chỉ ở một số ít vùng trên cao nguyên hoặc những vùng quê, nơi người dân còn nặng về mê tín chứ không như ở đây. Bùa chú mà cũng có festival. Hết biết. Nó là một trong rất nhiều  festival (ngày hội) của NO.  Gay festival. French quarter festival, Jazz festival.v.v. Chưa kể ngày lễ hội Mardi Gras còn quái dị hơn nữa. Nhưng vô luân nhất là Swinger festival, ngày hội của những cặp vợ chồng  hoán đổi cho nhau -vợ hoặc chồng -trong một số ngày nào đó- cuối tuần - hoặc một tuần lễ cho dài ngày hơn. Xong. Ai về nhà nấy, còn sau đó, họ có sống già với nhau hay không thì không ai biết. Họ rất dễ phân biệt với khách du lịch bình thường, với chiếc vòng dẹp màu sô cô la nhạt trên tay.
Những ngày đó, tại nhà hàng nơi Bố làm, Bố thường xuyên bực dọc cáu kỉnh.
Con không nói về tình hình, công việc của con bên đó. Email gửi về thường là những lời trấn an Bố Má. Con nói. Công việc con bận rộn lắm. Một  đêm chỉ ngủ ba, bốn tiếng. Không ngày nghỉ. Mà dù con không nói, Má cũng biết. Những tấm ảnh con gửi về đã nói lên điều đó. Có những bức ảnh con chụp quanh chỗ đóng quân. Trại lính đóng dọc trên bờ sông Tigris, với  những đập nước lớn chảy xiết.  Chiến tranh ở đâu cũng giống nhau. Không gian quạnh quẽ, khô khốc với những đồn lũy, bao cát trấn quanh hầm cá nhân. Má cảm nhận được không gian đó, vì dù trải qua bao nhiêu năm, những lần tìm thăm Bố ở tiền đồn, chiến tranh vẫn là cái gì đó, gần đến nỗi mình có thể nghe được hơi thở của nó. Dù không thể sờ nắm được nhưng nó thật sự hiện hữu ở mỗi bước đi, mỗi chỗ đứng, mỗi khoảng khắc của thời gian. Bố nói con phải đội nón sắt, dù ở trong trại lính. Kẻ thù có thể pháo kích bất cứ lúc nào và nón sắt có thể giúp bảo vệ được tính mạng cho con. Con phải nhớ rõ điều nầy.
Má đi ngược lại con đường cũ.  Đường  vắng. Nắng đã bò qua khỏi ngọn cây, theo gió rung rinh tàng lá sớm. Hôm nay là thứ tư. Tuần sau con sẽ nhận được quà của Má. Tưởng tượng, bàn tay con hối hả mở thùng giấy. "Ô, nhiều thứ quá!" Và rồi, con sẽ ăn cho bằng hết trong một thời gian kỷ lục số kẹo bánh Má gửi cho con. Con có thể ăn suốt ngày, kể cả mang vào giường nhâm nhi hương vị khô bò cay xé lưỡi mà vẫn chưa chịu là cay.
Và rồi, như bao lần, Bố lại lui cui ướp thịt bò, bắc vĩ nướng, xếp thẳng thớm từng lát thịt bò. Mấy ngày liền sấy không biết bao nhiêu là vỉ khô bò cho con .
Và cũng như sáng hôm nay, Má lại ra bưu điện xếp hàng, đợi đến phiên, khiêng cái thùng giấy đựng đủ thứ lỉnh kỉnh... Ông bưu điện già sẽ nhìn Má bằng cặp mắt ái ngại khi mắt lướt vào địa chỉ .
UNIT 73142
FPO AE 09509-3142
Má phải làm quen với nó hàng bao tháng trời nữa, cái địa chỉ ở cái xứ sở xa lạ nầy. Má hy vọng, thời gian qua nhanh hơn, Má sẽ được nghe tiếng con cười  trong ngôi nhà quen thuộc của mình, con sẽ dịch cho Má nghe, những bài thơ con viết từ Iraq.
Chỉ đến khi con trở về nhà từ chiến trường Iraq, Bố  Má mới thật sự là những kẻ hạnh phúc.
NHẬT NGUYỄN

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 833,300,908
Tác giả lần đầu gửi bài Viết Về Nước Mỹ và cho biết tên thật là Trương Thị Anh Đào là tên thật. Năm sinh: 1962. Qua Mỹ theo diện ODP năm 2011.
Tác giả là cư dân Miami, Florida, đã góp nhiều bài viết tuy ngắn nhưng tinh tế, cho thấy tấm lòng của ông với quê hương, con người, và nhận Giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2015
Tác giả đã kề cận tuổi 90 và lần đầu nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2019, với bài về Washington D,C. Mùa Lễ Chiến Sĩ Trận Vong.
Tác giả là một kỹ sư hồi hưu, đã sống 25 năm bên Pháp, hiện là cư dân Irvine, từng nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Bài viết mới của ông là một du ký chất chứa nhiều tâm sự tác giả.
Tác giả tên thật Đặng Thống Nhất, một nhà giáo hồi hưu sau nhiều năm dạy Song Ngữ và ESL tại Khu Học Chính Minneapolis và Việt Ngữ tại Đại Học Minnesota.
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại. Một số bài viết khác của cô được ký tên Thịnh Hương.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006 với bút hiệu Huyền Thoại. Một số bài viết khác của cô được ký tên Thịnh Hương.
Tác giả dự Viết về nước Mỹ từ năm 2000, Tám năm sau, ông nhận giải chung kết Viết Về Nước Mỹ 2009. Tác phẩm đã xuất bản: “Lá Số Vượt Biên”. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả đã nhận giải bán kết - thường được gọi đùa là giải á hậu 2001.