Hôm nay,  

Chiếc Áo Tri Thiên Mệnh

12/04/200400:00:00(Xem: 131958)
Người viết: VŨ THỊ THIÊN THƯ
Bài số: 514-1051-vb690404

Tác giả tên thật Võ Thị Xuân Đào, cư trú tại Dyer, In. Nghề nghiệp: Cosmetologist. Bà đã góp nhiều bài viết về nước Mỹ thể hiện những đàm thoại, băn khoăn về cách sống, sự chăm sóc cha mẹ già, hạnh phúc gia đình. Bài viết mới lần này của bà là tâm tình của người vợ, người mẹ trước tuổi “tri thiên mệnh”.
*

Những đêm khi các con đã yên ấm trong chăn nồng thì mẹ vẫn còn lọc cọc cắt may. Mỗi lần bạn bè họp nhau cuối tuần lại thấy các con diện bộ cánh mới đi chơi. Nam thì như cậu hoàng con, áo sơ mi trắng, mặc ngoài vest , Trân cũng bộ cánh mới toanh, trông như con búp bê ...
Ngày lang thang với nhau, trong khu thương mại, rẽ vào một cửa hàng bách hóa, Thu dạo một vòng, mang lại mấy cái áo đủ màu, cẩn thận ướm vào cho chị rồi khen:
- Chị à! Em thấy cái nầy coi cũng được quá đó, chị vào trong mặc thử nhé "
- Nhỏ à! Đẹp thì có đẹp, nhưng chị không cần, bây giờ ít khi đi đâu, mua mà không mặc treo hòai cũng bám bụi thôi .
- Thì thỉnh thoảng chị đi ăn tiệc mặc cũng được vậy.
Tiệc tùng gì nữa em, cuối tuần gặp nhau, dăm ba người bạn vong niên, trẻ nhất cũng đã tri thiên mệnh, ngất ngưỡng khề khà, chuyện trời đất miên man, chén anh chén chú . Cuối cùng cũng trở lại..." Phụ phù phu.." (*) Lặng lẽ dìu phu quân ra xe, miên man lái về, có khi nửa đêm, có khi gần sáng, như vậy cũng xong một cuối tuần yên giấc.
Bạn bè dăm ba người đếm trên đầu ngón tay, như cái vòng lẩn quẩn, gặp nhau chút chuyện cười đùa cho qua tuần trả nợ áo cơm. Trong sở thì một năm đôi ba lần khao thưởng, cưới xin họa hoằn mới có dịp, khi đi mừng thì bỗng dưng thấy mình trở thành trưởng thượng ăn trên ngồi trước. Bước lên hàng cô bác, ai lại mang bộ cánh của thời thanh niên, vào ra cùng bầy trẻ thì thật là chướng mắt. Nhưng dù có tha thướt trong áo dạ hội thì vẫn nhớ tà áo dài quấn quít theo từng bước chân.
Hàng năm, ngày liên hoan cho toàn thể nhân viên, bạn bè thường đùa nhau là "JCP Prom night ", từ mấy tuần lễ trước ngày đã ríu rít hỏi nhau, " Chọn được áo chưa" Màu gì ..." xôn xao như bọn trẻ. Lần nào cũng đứng trước gương nhìn lại tủ áo, rồi mang mấy chiếc áo dài ra nâng niu vuốt nhẹ, lụa mịn mát dưới làn da tay, bâng khuâng.
Một lần nọ, nổi nhớ nhung dâng trào, trong buổi tiệc liên hoan, cứ phân vân, nhìn hàng áo, nhớ quá, chọn chiếc áo dài in hình lá phong, lụa mềm mại.
Trời tháng mười, thêm chiếc áo khoát mỏng che hờ trên vai, phòng tiếp tân ngợp màu sắc,bao nhiêu là áo kim tuyến lấp lánh, ngũ sắc loang như vòng cầu, khi bước vào, vừa cởi chiếc áo khoát,trao lại cho người nhân viên phụ trách việc máng áo vào phòng chứa, còn đang đứng chờ một chút, cho đôi mắt quen với ánh đèn, sẽ đi tìm chổ ngồi, bạn bè chạy lại xúm xít, tên nầy lại vuốt áo tên kia bấm máy ảnh...
- Aùo của Bà kiểu lạ và đẹp quá, gọi là gì vậy "
- A! Aó dài, đây là quốc phục của phụ nữ Việt nam chúng tôi.
- Không ngờ quốc phục của bà vừa kín đáo lại tha thướt, dù che kín cả người không phơi bày một mảnh da, nhưng lại không che hết các đường cong trên thân ngưới, thật là mong manh và quyến rủ...
Những năm sau nầy không còn tay bế tay bồng, không còn phải khư khư nắm chặt tay hay tất tả chạy theo, mỗi năm Tết về, tôi lại cắm cúi ngồi may áo dài đi chưng diện. Dần dà mùa đông hay mùa hè, mỗi khi cần phải đi dự tiệc tùng quan trọng hay đi mừng chuyện cưới xin, áo dài vẫn là chiếc đầu tiên và cuối cùng tôi chọn lấy.
Mùa hè, nắng Ngũ Đại Hồ và không khí ẩm đầy hơi nước, sức nóng ngột ngạt như những ngày còn thanh niên ở quê nhà. Bọn chúng tôi bước dần vào tuổi tri thiên mệnh, nhìn những mái tóc nhạt dần theo màu thời gian, sợi trắng lấn sợi màu. Bạn bè mỗi lần họp nhau, không phàn nàn về một căn bệnh vừa lấp ló thì sẽ thở than về bóng chiều lăm le trên ngưỡng cửa.
Tôi và cô bạn nhỏ tuổi hơn đang ngồi chuyện trò, chợt cô đá vào chân tôi và nhìn ra cửa. Theo ánh mắt của cô, tôi nhìn mà ngữ ngôn bay biến. Một bà bạn khác của chúng tôi, tuổi tác có hơn tôi dăm ba năm, tôi cố không nhìn bà mà thở dài, chờ cho bà đi khuất, cô bạn nhỏ quay sang
- Mai mốt nhỡ em có đổi tính tình, sinh tâm, chị ráng gõ vào đầu cho vài cái nhé, kẻo em làm trò cười cho thiên hạ…
- Ừ nhỉ, người đi trước là chị đó, nhỡ chị có làm chuyện không giống ai thì cũng nhớ chặn lại, nhất là khi có dịp gặp nhau nhớ nhắc chừng cho nhau.
Bà bạn tôi, tấm thân nẩy nở theo những chiều không cần thiết, chiếc áo cánh phơi một vùng thiên nhiên màu mỡ, chiều dài chưa giáp thắt lưng, chiếc quần jean bó sát đùi, bày ra từng ngấn thung lũng chìm sâu. Tôi lắc đầu, dù cho có cố gắng kéo lại thanh xuân, mỗi người chúng ta, nhưng tôi thật không có can đảm khóac lên người bộ cánh non nớt dành cho các thiếu nữ trẻ trung vào thời mới lớn, và còn ngang nhiên bất chấp nhởn nhơ ra trước bàng quang thiên hạ.
Cô bạn nhỏ và tôi, điều chúng tôi lo ngại nhất là khi đến tuổi tri thiên mệnh, sự mất quân bình kích thích tố, tính tình đột nhiên thay đổi, hay làm những chuyện.. "out of line " hay nói cách khác đi làm trò cười cho thiên hạ, như bà bạn tôi đang làm.
Đã lăm le vào tuổi năm mươi, tôi hiểu rất rõ là mình đang nắm níu, cố gìn giữ xuân xanh, tươi trẻ, nhưng không có nghĩa là ăn mặc như vậy, nhất là khi thân hình đã qua bao nhiêu lần cưu mang, không còn rắn chắc như thuở trước, vòng eo thon thả ngày nào đang có khuynh hướng tăng trưởng, những bắp thịt tay chân cũng nhão nhoét theo thời gian.
Tôi nhìn xuống đôi bàn tay của chính mình, những ngón tay thon ngày nào vẫn còn dài dặn, nhưng những lằn gân xanh chằng chịt đã ló dạng. Khi đứng nhìn chính mình trước gương, những nếp nhăn trên trán, nụ cười kéo theo đuôi mắt, có thể che bằng phấn son trang điểm, nhưng không thể dối chính mình. Điều quan trọng là có giữ được cho chính mình cái nhân cách, cái bình an cho tâm hồn" Tươi trẻ không có nghĩa lố lăng, ăn mặc diêm dúa không hợp tuổi tác, nhất là đã bước vào cương vị cô bác trong nhàø.


Điều khó khăn nhất là chiến đấu với chính mình, với bệnh tật, với triệu chứng, những ngày mưa sắp về, từng lóng tay, khớp xương đã báo trước, những lúc nóng lạnh bất thường, gánh con gánh cháu... cùng lúc với người bạn đời tuổi cũng sắp bước vaò thời kỳ viên mãn, chọn cho mình con đường nào để đi, nẻo nào để rẽ, quả là nhiêu khê...
Bạn tôi, chị cũng hơn tôi mươi tuổi, con cái đã thành tài, đứa nào cũng xong đại học, rồi cũng gia thất đề huề, mổi đứa một nơi, bờ tây Thái bình dương nắng ấm, ven đông Đại Tây dương bão bùng, năm một lôi hai năm, đứa gọi Mẹ ơi ới, chị bay sang đông nuôi con dâu dược tròn tháng thì lại bay về tây con gái đang chờ ngày... Khổ nổi anh hãy còn đang làm việc, phải chờ đợi vài năm nữa thì mới đủ tuổi để về hưu.Lại lếch thếch cơm cá đông lạnh ăn hàng tháng hàng ngày, lủi thủi cạo tuyết sớm mai, vào ra quạnh quẽ.
Nhớ lại những tháng năm chị còn bồng chống bầy con dại ở quê nhà, anh một thân một mình theo tàu vượt khơi, lủi thủi sang xứ lạ quê người, nhớ vợ con hiu hắt. Ngày cắp sách, tối đi làm, một nắng hai sương, dành dụm, mang được vợ con sang thì lại tiếp tục hai sương một nắng lo cho bầy trẻ nheo nhóc, đứa vào trung học, đứa vào tiểu học, đón đứa nầy, đưa đứa kia, ngồi xuống dạy kèm đứa lớn, quay sang giảng bài đứa bé... Cho đến khi chúng vào đại học, lần lượt thành tài, đi xa theo công việc, còn lại hai vợ chồng vào ra có nhau, sớm hôm bầu bạn. Mọi người nhìn anh chị trêu là bây giờ mới là tuổi vàng son như thuở... Chưa được bao lâu thì chị lại khăn gói sang đông, về tây...Anh lại một mình sáng cơm tay cầm vào sở, chiều về bạn với microway, thức ăn trong tủ đông đá mang ra nuốt vội, chời giờ giấc vào phôn vợ dăm câu, hỏi thăm chút sức khỏe hàng ngày, và đi ngủ, chờ sớm mai lập lại.
Bạn tôi, chị và phu quân hơn bốn mươi năm hương lửa, anh thuở xưa lấy quân đội làm nghề, lang thang ngày nầy tháng nọ. Chị ở lại quê nhà một mực dâu con. Cái máu cuộc cờ chén rượu, anh đàn đúm bạn bè, chị không hề hé răng, hàng tháng tay bồng tay dắt, tay xách nách mang, gói ghém chút thức ăn, con cá khô quê nhà, hạt gạo hương lúa mới,chẳng lạ gì tính hào phóng của chồng, mang theo các thức để chia chát cho cả bạn bè. Ngày vất áo trận tiền, nắm níu vợ con, anh trốn lại lặn lội về quê nhà nhìn bầy con nheo nhóc, thở dài, dắt díu nhau tìm vào tận đồng ruộng xa xôi, đốn tre lợp mái lá, trồng luống rau, ngày cuốc đất ẩn thân, đêm nhìn sao hiu hắt. Thầm tính toán, chạy đáo chạy đôn...
Cuối cùng, bồng chống xuống con tàu lênh đênh, mang được vợ con tơi tả sang Bidong bi đát, đốn cây lợp mái chai tay, cắt nhánh chặt cành, gánh củi oằn vai, rồi cũng theo nhau về định cư xứ lạ quê người, bầy con như lúa xạ, lớn theo năm tháng, cũng phu thê, cũng con cái đề huề, cũng chén anh chén chú. Ngồi lại cùng nhau, chị vẫn dung nhan tươi cười, đơn giản.
- Ậy cái số mà, chạy nắng chớ không ai chạy trời, hồi đó ông già không chịu gả, đã từ chối rồi, ai lại đi hỏi nữa, vậy mà ông già chồng nhứt định hỏi cho bằng được.
- Ừ, hồi đó anh cũng bê tha, bồ bịch tùm lum, ai lại về quê cưới vợ bao giờ, ông già nhứt định lôi về, đám hỏi mà chưa gặp nhau nữa là, vậy mà hơn bốn chục năm đó.
Anh chị cũng con đàn cháu đống, các con quây quần chunh quanh, cách nhau không hơn nửa tiếng lái xe, cuối tuần trong nhà vang tiếng trẻ. Có đứa vào đại học, có đứa không, nhưng cũng cửa nhà êm ấm, cuộc sống bình an. Hai vợ chồng đi làm hàng ngày, chiều về anh khề khà lon bia, chị bên cạnh, khi thì tuồng cải lương trong máy, khi thì hài kịch, phim tuồng. Con cháu đi học về, hôm nào ghé ngang thì bà xới cho chén cơm, khi thì khứa cá kho, lúc thì miếng sườn nướng... Mỗi năm, ngày sinh nhật anh, chúng mang lại, đứa thì chai Cognac, đúa thì con tôm hùm cho Ba đánh chén, sinh nhật chị thì chúng kéo nhau ra nhà hàng Tàu, ăn cho đầy bụng, hể hả mọi người.
Hai chị bạn, hai cảnh đời, người thì con cháu quây quần, kẻ thì chạy theo tất bật, cùng lứa tuổi bên trời lận đận, hai ông chồng, người còn đìu hiu cơm canh nguội lạnh, kẻ thì khề khà chén rượu mỗi chiều.Hai bầy con, bên thì danh phận rỡ ràng, nhưng lại quá bận, không có thời gian lo chăm sóc con cái, sinh ra thì chỉ mong giao lại cho cha mẹ, đã không lo được miếng ăn, chén nước,còn bấu vào Mẹ, tranh nhau từng tháng từng ngày, Mẹ tuổi đã cao, nay chạy sang đông giúp, mai chạy sang tây lo...
Trong khi đó, bầy kia chỉ thì học hành cơ bản, lấy lao động lập thân, chăm chỉ làm ăn, ngày ngày vấn an cha mẹ, khi thì chén rượu, lúc miếng ăn, chưa kể hàng năm lo cho Cha mẹ cuộc nghỉ hè nầy, chuyến du hành nọ, luôn luôn lo lắng tìm cách cho cha mẹ an vui...
Cô bạn nhỏ và tôi, tuổi đời không cách xa nhau mấy năm, con đường tri thiên mệnh kề cận, nhìn hai hòan cảnh khác nhau, trong lúc trò chuyện, vẫn thường hỏi nhau "chúng ta rơi vào trường hợp nào" Dù biết là ngày mai không hứa hẹn, nếu có chọn được thì chúng ta chọn cho mình con đường nào để đi" "
Làm sao có thể chọn được cho mình, và biết rơi vào trường hợp nào" Cầu mong cho con cái thành công và hạnh phúc. Chắt chiu nuôi nấng cho chúng ăn học thành tài, dựng sự nghiệp, lập gia đình, và tiếp tục chạy tất bật theo chăm sóc luôn cho con cái chúng, hay chỉ chờ cho chúng yên bề gia thất rồi vợ chồng sẽ tiêu dao ngày tháng, an hưởng tuổi vàng"

Vũ Thị Thiên Thư

(*) "Phụ phù phu" Do điển tích trong Văn học: Sư sử sứ - phụ phù phu:
Vua Lê Thánh Tôn đi kinh lý, thăm làng Cao Hương huyện Vụ Bản,Sơn Nam, quê hương của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, đến thăm chùa, lúc bấy giờ nhà sư cụ đang tụng kinh, bỗng đánh rơi chiếc quạt, người ra hiệu cho chú tiểu nhặt, nhưng vị quan tùy tùng của nhà vua đang đứng kề bên vội nhăt lấy và trao lại cho sư.
Nhà Vua thấy vậy mới nghĩ ra câu đối :
Đường thượng tụng kinh, sư sử sứ [nghĩa: trên bục đọc kinh sư khiến sứ ]
Và Ngài thách các quan đối lại, vế đối khó khăn ở ba chữ cuối : Sư sử sứ,thật là oái oăm
Trạng nguyên Lương Thế Vinh vẫn ung dung ngồi uống rượu, Vua gọi đích danh quan Trạng bảo hãy đối lại, Quan điềm nhiên uống xong bảo người hầu hãy về nhà vời Phu nhân đến dìu mình về, khi Nhà Vua hỏi thì Trạng trả lời : Thưa đó là câu đối của HạThần, và chỉ vào phu nhân Quan thưa:
Đình tiền túy tửu, phụ phù phu [Trước sân say rượu, vợ dìu chồng]

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,249,832
Với bài "Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine", tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016 và vừa nhận thểm Giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2018. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Tác giả tên thật Lý Tuyết Mai, cư dân Pomona, CA. làm việc tại Bộ Xã Hội. Đến Mỹ khi còn tuổi học trò, cô thuộc "thế hệ gạch nối" của người Việt tại Mỹ. Với bài viết về chính sách của Bộ Xã Hội Mỹ đối với trường hợp một cô bé gốc Việt 16 tuổi mang bầu, Bảo Trân đã nhận giải Vinh Danh Tác Phẩm - thường gọi đùa là giải á hậu - Viết Về Nước Mỹ 2009. Sau đây là bài viết mới của cô.
Tác giả là một cựu tù cộng sản, hiện sống ở Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, và từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông. Sau giải Đặc Biệt năm 2017, với bài viết của một dân sự gốc Việt từ căn cứ Mỹ tại Afganistan, ông được trao thêm giải Danh Dự VVNM 2018. Sau đây là bài viết mới của ông, từ Cameroon, một nước ở miền trung Phi châu.
Viết Về Nước Mỹ năm thứ 20 trân trọng chào mừng thêm một người viết mới. Theo bài viết, từ 1978, Ngọc Ánh đã là tác giả những trang nhật ký của một nữ sinh viên viết từ Sài Gòn, được đăng trên bán nguyệt san Việt Nam Hải Ngoại tại San Diego. Và từ 1979 thì cả nhà người viết đi tù. Người chồng bị kết án tử hình. Cháu bé mới sinh một tuổi theo mẹ vô nhà tù. Nhưng hơn 10 năm tù đày cộng sản không làm bà gục ngã. Và rồi, tình yêu đến... Thư kèm bài, bà viết “Tôi tên thật là Trần Ngọc Ánh, hiện đang sống tại thành phố Victorville, CA. Lần đầu tiên tôi viết bài tham dự "Viết về nước Mỹ" và hy vọng sẽ có nhiều bài viết về chủ đề này gởi đến Việt Báo trong năm nay...” Khi thêm bài mới, mong tác giả bổ túc ít dòng tiểu sử và địa chỉ liên lạc.
Tháng Năm 2018, tại Việt Báo Gallery, có buổi ra mắt sách Anh ngữ "Finding My Voice—A Journey of Hope” tác giả Crystal H. Vo tức Võ Như Ý, một tác giả từng dự Viết Về Nước Mỹ từ 2009. Cô sinh năm 1970 ở Đà Nẵng. Năm 15 tuổi vượt biên cùng một người anh, tới Mỹ năm 1986 và thành công dân Mỹ với tên Crystal H. Vo. Cô hiện là cư dân San Gabriel, CA. và làm việc tại Sở Xã Hội Quận Hạt. Trong những năm ngừng viết về nước My,õ cô kết hôn, thành con dâu một gia đình Mỹ và đã dành trọn thì giờ để học sống và viết bằng Anh ngữ. Sau đây là bài viết mới nhất của cô sau họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tác giả tên thật Trịnh Thị Đông, sinh năm 1951, nguyên quán Bình Dương. Nghề nghiệp: Giáo viên anh ngữ cấp 2. Với bút hiệu Dong Trinh, bà dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 7, 2016. Với sức viết mạnh mẽ, tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2017. Sang năm 2018, bà có thêm giải Vinh Danh Tác Giả, thường được gọi đùa là giải Á hậu. Sau đây, là bài viết mới nhất, khi tác giả bay từ Arkansas về họp mặt Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Và...
Chỉ với bài viết đầu tiên, tới vào tháng cuối, Tác giả đã nhận giải Viết Về Nước Mỹ năm thứ XIX. Thư kèm bài, tác giả viết “Tôi tên Tố Nguyễn, đang làm tax accountant ở Los Angeles, thường xuyên theo dõi mục Viết Về Nước Mỹ. Tôi rất xúc động khi đọc những câu chuyện đời của người Việt trên xứ Mỹ, giờ tôi xin góp câu chuyện thật của tôi...” Sau bài đầu tiên, bước sang năm thứ 20 của giải thưởng, tác giả đang tiếp tục cho thấy sức viết ngày càng mạnh mẽ hơn. Sau đây là bài viết của cô về lần đầu họp mặt Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả sinh năm 1953, tốt nghiệp Sư Phạm Sài Gòn khóa 12. Vượt biên sang Mỹ 1982, và từ đó tới nay định cư tại San Jose; Nghề nghiệp: Mechanical Designer, về hưu tuổi 65. Bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện vui về nhóm bạn trường Sư Phạm Sài Gòn, khóa cuối cùng, ra trường năm 1975, kèm lời ghi của tác giả: “Thân tặng các bạn lớp Nhất 9/Nhị 15, khóa 12 (1973-75) Sư Phạm Sài Gòn.”
Tác giả tên thật Nguyễn Hoàng Việt sinh tại Sài Gòn. Định cư tại Mỹ năm 1990 qua chương trình ODP (bảo lãnh). Tốt nghiệp Kỹ Sư Cơ Khí tại tiểu bang Virginia năm 1995. Hiện cư ngụ tại miền Đông Nam tiểu bang Virginia. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ cuối năm 2016. Với “Viên Đá Kỳ Diệu,” một trong bốn bài viết về nước Mỹ của ông, Thảo Lan đã nhận giải đặc biệt Viết Về Nước Mỹ năm thứ 19.
Tháng Bảy, mùa Vu Lan, xin mời đọc bài viết về Mẹ của Minh Nguyệt Graves. Tác giả cùng hai con gái tới Mỹ ngày 27 tháng Bảy năm 2001 theo diện đoàn tụ. Mười sáu năm sau, bà là chủ tiệm Nails ở Texas và kết hôn với một người Mỹ. Với sức viết giản dị mà mạnh mẽ, tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự năm thứ mười chín, 2018.
Nhạc sĩ Cung Tiến