Hôm nay,  

Gió Đưa Bụi Chuối

17/04/200300:00:00(Xem: 242698)
Người viết: Chúc Chân
Bài tham dự số 3181-779-vb20414

Tác giả tên thật Hùng Túy Trước, tuổi Giáp Ngọ, cư trú tại Austin, Texas, tự sơ lược tiểu sử như sau:
Nghề nghiệp: 18 năm làm kỹ sư, hiện làm nghề thợ săn việc. Quá trình viết: Viết luận văn rất bết khi ở trung học nên theo ban toán cho dễ. Lên đại học theo ban kỹ thuật nên không sợ chuyện văn chương. Qua Mỹ học 2 courses English Composition bằng tự điển Nguyễn Văn Khôn. Gần đây làm “thợ săn việc” có nhiều thì giờ ngắm trời mây cây cỏ nên muốn tập làm luận văn lại.
Ngay từ bài Viết Về Nước Mỹ đầu tiên, Chúc Chân đã cho thấy lối kể chuyện đặc biệt, tinh tế, chừng mực. Lần này, bài thứ hai, lối kể chuyện của ông thêm nét nhân hậu và duyên dáng đặc biệt. Nói theo tác giả, hy vọng Chúc Chân sẽ còn nhiều bài “luận văn” xuất sắc khác.
*
Gió đưa bụi chuối sau hè
Anh mê vợ bé bỏ bè con thơ
Ca dao Việt Nam

"Tụi bây nói sao"", tiếng bà Hai Bình oang oang, "Tao làm gì quấy chớ"".
Quân anh và Quân em ngồi im thin thít ngoài phòng khách.
Tiếng Dung nữ nói thủ thỉ như sợ lối xóm nghe mặc dù nhà ở Mỹ cao tường kín cửa, "Má à thủng thẳng nói, chuyện đâu còn đó".
. . .

Ở Việt Nam gia đình bà Hai Bình không khá giả nhưng cũng không túng thiếu gì. Bầy con sáu đứa ấm no. Khi Quân anh tới tuổi quân dịch đăng lính, của cải chắt mót bao năm bà đổ vô chạy cho nó đóng địa phương quân được gần nhà đỡ lo. Thời buổi nầy lằn tên mũi đạn khó tránh. Ba Xuyên dầu gì cũng êm hơn Bù Đăng bù đó hay cái gì đó. Mấy chỗ bà Hai Bình cũng không biết là ở đâu, chỉ nghe có "đánh lớn lắm".
Ông Hai Bình có nghề thợ bạc, lãnh ăn công cho tiệm vàng dưới chợ cũng lây lất thôi. Đủ tiền cà phê, thuốc lá và chi phí cho cô Ba và thằng con hai tuổi của cô và ông Hai Bình. Từ khi ông Hai Bình công khai qua lại với cô Ba, bà Hai Bình đành ngậm đắng nuôi bầy con. Nhiều khi bà muốn chết phứt cho rảnh nợ, nhưng thằng Lâm mới năm tuổi, con Dung nữ mới bốn. Quân anh, Nhị, Quân em và Nam đang sắp từ lớp một tới lớp tám, bỏ lại ai nuôi.
Bà Hai Bình hồi còn con gái, cô Thơm, không đẹp "lộng lẫy", nhưng cũng dễ coi. Nhà có quán cà phê ở xóm cầu. Xóm lao động, quán đắt khách nhờ cà phê ngon bán rẻ một phần, chủ chịu chìu khách nên ai cũng thích tới. Hồi cô Thơm tới tuổi cập kê, có mấy cậu chịu khó tới uống ngày mấy cử cà phê.
Hai Bình coi được, người cao ráo cũng phong nhã lắm và có nghề thợ bạc. "Đeo vàng đỏ tai", cô Thơm không ham lắm, nhứt nghệ tinh mới quan trọng. Bạn gái trong xóm cùng lứa mấy đưa lấy chồng làm công không nghề, bây giờ phải buôn gánh bán bưng, dầu dãi nắng mưa mới đủ nuôi con.
Hai Bình chỉ có hai anh em, lưu lạc về Ba Xuyên rồi cắm sào luôn, đất lành chim đậu. Đám cưới Hai Bình chỉ đãi bên vợ thôi. Hai Bình và đám thanh niên trong xóm phụ tay mấy ngày dựng rạp ngoài quán cà phê, che thên thảo bạc, chặt lá dừa nước, cắt bông dăm bụt trang hoàng cổng "Vu Qui". Chục mâm cỗ đãi hai họ do bà nhạc tự tay nấu. Hai Bình đi tiền mâm bàn tươm tất, bốn ngàn bốn trăm bốn mươi bốn đồng. Nhà gái lấy phần chẵn, dằn bốn trăm bốn mươi bốn đồng lại rất đúng phép. Cô dâu trong chiếc áo dài cưới màu hường do cô bạn thợ may trong xóm may giùm mặc thật vừa vặn. Tô chút son phấn cô dâu xinh xinh muôn phần.
Vợ chồng son, sanh năm một năm cách, không bao lâu đàn con sáu đứa lần lượt sản xuất. Hồi đầu vợ chồng sống chung đầm ấm. Hai Bình khéo tay nghề, tiệm giao cho công chuyện nhiều nên làm ăn khá lắm. Vợ chồng sang được căn nhà ở xóm trên cách con lạch cầu xóm khúc đường. Mỗi năm sắm tết quà cáp cho nhà vợ Hai Bình không tiếc. Chị Hai Bình cũng nở mặt nở mày.
Sau khi sanh thằng Nam thì Hai Bình bắt đầu cờ bạc. Lúc đầu chỉ đánh đề lẻ tẻ, sau đó "sập xám" Hai Bình dám chơi năm trăm một chi ăn thua. Tiếng Hai Bình cờ bạc tới tai chủ tiệm cũng lẹ. Các tiệm vàng dưới chợ đưa đồ làm ít lần lần. Không tiền nhiều dư dả thì tiêu xài dè sẻn chị Hai Bình khéo lo.
Lúc đầu Hai Bình dấu kỹ. Khi chị Hai Bình hay thì cô Ba chửa bụng lớn rồi. Cô là em vợ tiệm vàng Kim Hưng, ở Cần Thơ về. Làm lớn chuyện không đi tới đâu. Đằng nào chị Hai Bình cũng ngồi ngôi chánh. Biết khôn giữ cơm no áo ấm cho đám con nhờ.


Mấy năm lúc Hai Bình còn làm ăn khấm khá, chị có dấu cất được chút của. Sau khi sanh Dung nữ, chị hai Bình theo nghề cha, bỏ chút vốn mở quán bán cà phê buổi sáng, đồ nhậu buổi chiều. Mấy năm Sư Đoàn 21 đóng bộ tham mưu ở Ba Xuyên, các sĩ quan thích tới quán bà Hai Bình với những món nhậu hạp khẩu, cá lóc hấp, tôm càng nướng, lẩu lương. Quán đông khách. Mấy đứa con sau giờ học tiếp tay mẹ lo coi quán chạy bàn. Bà Hai Bình mướn thêm ba đứa phụ việc bếp. Gia đình nhờ vậy không túng thiếu.
Sau năm 75, bà Hai Bình cảm ơn trời đất phù hộ. Nhờ làm lính trơn, Quân anh khỏi bị bắt đi học tập. Thằng Nhị, đứa kế, trốn nhà theo bạn đi vượt biên. Bà Hai Bình lo quá. Mấy tháng sau được tấm hình nó chụp ở trại tị nạn gởi về bà mới thôi lo. Quán bây giờ chỉ bán cà phê buổi sáng cầm hơi.
Khi vượt biên bán công khai, rồi công khai cho người Việt gốc Hoa bắt đầu, tỉnh lỵ tấp nập. Quán bà Hai Bình bán đồ nhậu lại. Nhờ ở gần trục giao thông chánh trong thành phố, quán là điển hẹn tiện lợi cho các chủ tàu tổ chức. Hầu như tất cả mọi áp phe trong thành phố đều kết thúc ở quán bà Hai Bình. Đám con làm không kịp thở. Bà Hai Bình đếm bạc mỗi đêm cũng không kịp thở. Bà không thích giữ tiền mặt, nên Quân anh có thêm trách nhiệm đổi vàng cho gia đình.
Khi nghe một chủ tàu có tàu lớn máy mới, Quân anh không bỏ qua cơ hội. Áp phe giá cả xong xuôi, Quân anh tìm cách thuyết phục mẹ không khó khăn. Số vàng Quân anh đổi cả năm nay đủ trả tiền tàu. Ông Hai Bình muốn dắt cô Ba đi luôn nhưng không có tiền, cũng không mặt mũi nào để xin vợ lớn. Rộng lượng lắm thằng nhỏ con riêng được cho 3 cây để ông dẫn theo. Đàng nào nó cũng là anh em với đám Quân anh, Quân em. Cô Ba không chịu bỏ con. Ông Hai Bình đành theo cả gia đình đi chuyến tàu Công Thành. Bỏ cô Ba và thằng út Ngọt lại.
Qua tới Mỹ chịu cực, lúc đầu gia đình bà Hai Bình mở một quán nhỏ trong khu down town xập xệ, bán mì phở và vài món nhậu lai rai. Khách vào quán phần nhiều mấy anh độc thân thèm đồ ăn Việt Nam. Lần lần khách đông thêm, tiệm dời vô khu shopping rộng hơn. Rồi mở thêm hai tiệm mới ở khu rộng rãi khang trang hơn. Khi tiệm ăn bán khá mướn thợ đủ tay, bà Hai Bình thôi không vào bếp làm nữa.
Qua Mỹ ông Hai Bình không còn làm ăn gì. Tiền welfare ông Hai Bình cất xài riêng. Ông có gởi tiền về cô Ba đều đều, bà biết hết nhưng không nói gì. Đằng nào mình cũng ngồi ngôi chánh. Có một chuyện ở Mỹ bà Hai Bình chịu lắm. Con Dung nữ có chồng khỏi lo như bà hồi nào. Chồng có theo ai cũng phải gởi tiền nuôi con.
Sau khi tới Mỹ được hai năm, ông Hai Bình phải mổ cắt bỏ lá phổi bị chai, có thể sanh biến chứng ung thư về sau. Bà Hai Bình theo ông trong nhà thương rồi về nhà nuôi đủ không thiếu sót gì.
Chính phủ Mỹ mở chương trình ô đê bê hay đê tê gì đó cho đoàn tụ gia đình, bà Hai Bình có nghe nói. Đám con bà ở Mỹ hết bà con, khỏi lo bảo lãnh ai. Riêng ông Hai Bình thì háo hức. Thằng Lâm lúc nầy chở ba nó đi công chuyện thường xuyên, tới nhà bạn ông Hai Bình hỏi thủ tục bảo lãnh vợ con.
Ông Hai Bình điền đơn bảo lãnh đủ hết. Không có giá thú với cô Ba nhưng nhờ bạn bè làm giấy chứng nhận cũng xong. Kẹt một điều ông phải có giấy li dị vợ ở Mỹ. Trách nhiệm nầy ông giao thằng Quân anh, trưởng nam phải đứng mũi chịu sào. Nhưng chuyện nầy Quân anh dành bó tay không thể nào mở miệng với má nó được. Sau mấy ngày năn nỉ, cô em gái duy nhất trong nhà đành lãnh trọng trách báo tin sét đánh nầy.
"Tụi bây nói sao" Tao làm gì quấy chớ mà ba bây đòi li dị tao" Bây coi đi, từ ngày ổng theo cô Ba, bỏ tụi bây cho tao nuôi vất vả trăm bề mà tao đâu có đòi thôi ổng. Qua đây ổng thập tử nhứt sanh, tao theo tao lo chăm sóc chu đáo, đầy đủ bổn phận, đâu có thiếu sót gì với ổng. Ổng gởi tiền về cho cô Ba tao đâu có cản có nói gì. Bây giờ đầu tao hai thứ tóc, cháu tao đầy nhà, ổng đòi li dị tao! Mặt mũi nào tao còn gặp ai"".
*
Năm sau ông Hai Bình được đoàn tụ với cô Ba và thằng út Ngọt.
Dung nữ ký tên bà Hai Bình giống lắm.

Tháng Ba-2003
Chúc Chân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,480,031
Tác giả tên thật Trần Năng Khiếu. Trước 1975 là Công Chức Bộ Ngoại Giao VNCH. Đến Mỹ năm 1994 theo diện HO. Đã đi làm cho đến năm 2012. Hiện là công dân hưu trí tại Westminster. Tham dự Viết Về Nước Mỹ từ tháng 8/2015. Đã nhận giải đặc biệt 2016. Nhận giải danh dự VVNM 2017.
Tác giả sinh năm 1959 tại Đà Nẵng đến Mỹ năm 1994 diện HO cùng ba và các em, định cư tại tiểu bang Georgia. Hiện là nhân viên công ty in Scientific Games tại Atlanta, tiểu bang Georgia. Bà đã góp bài từ 2015, kể chuyện về người bố Hát Ô và nhận giải Viết Về Nước Mỹ. Bài viết mới, tựa đề được đặt lại theo nội dung.
Mai Hồng Thu là tên Việt của tác giả Donna Nguyễn/Donna Nguyen. Với ba bút danh này, cô đã từng góp nhiều bài Viết Về Nước Mỹ và đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2013. Sanh tại Sài Gòn, sang Mỹ năm 1985, hiện là cư dân San Jose, California, tác giả đã dịch thuật và xuất bản 3 tập truyện ngụ ngôn dành cho thiếu nhi của Thornton W. Burgess dưới bút danh Nguyễn Nhã Đan Na (Nguyễn Donna). Sau đây là bài viết mới nhất của cô.
Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh tại chỗ do chính ông chụp. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách "Xin Em Tấm Hình" và tập truyện mới, "Bắc Kỳ". Sau đây là bài mới ghi chép sơ lược ngày 30 tháng Tư năm xưa.
Với bài “Hành Trình Văn Hóa Việt tại UC Irvine”, tác giả đã nhận Giải Việt bút Trùng Quang 2016. Ông tốt nghiệp cử nhân về Ngôn Ngữ Học tiếng Tây-Ban-Nha tại UC Irvine. Sau 5 năm rời trường để theo học tại UCLA, tốt nghiệp với hai bằng cao học và tiến sĩ về ngành Ngôn Ngữ Học các thứ tiếng gốc La-Tinh, ông trở lại trường cũ và trở thành người đầu tiên giảng dạy chương trình tiếng Việt, văn hoá Việt tại UC Irvine từ năm 2000 cho tới nay. Sau khi nhận giải Việt Bút Trùng Quang 2016, tác giả vẫn tiếp tục góp thêm bài viết về nước Mỹ. Bài mới của ông, tuy không phải chuyện nước Mỹ nhưng là chuyện trong lòng người Việt tị nạn cộng sản tại Mỹ thường nghĩ tới, được viết về việc Saigon bị đổi tên với lời ghi trân trọng: Để kỷ niệm 30 năm ngày Quốc Hận 30 tháng Tư trên đất Mỹ.
Tác giả hiện là cư dân Tampa, Florida, đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài Gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi ra khỏi quân y viện... Bài viết mới của ông mở đầu bằng câu “Đôi khi tôi nghĩ, viết về một nơi chốn khác, cũng là một cách Viết Về Nước Mỹ.” Cách viết đối chiếu chi tiết tinh tế của tác giả cho thấy không chỉ đúng như ông nghĩ mà còn làm hiện rõ cả tính cách người (hơi hơi) Mỹ gốc Việt.
Tác giả từng sống ở trại tỵ nạn PFAC Phi Luật Tân gần mười một năm. Ông tên thật Trần Phương Ngôn, hiện hành nghề Nail tại South Carolina và cũng đang theo học ở trường Trident Technical College. Với bài "Niềm Đau Ơi Ngủ Yên" viết về trại tị nạn Palawan-Philippines, Triều Phong đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2014. Sau đây là bài viết mới nhất của ông.
Maui là hòn đảo du lịch nổi tiếng của Hawaii. Du ký vui được cùng viết bởi “Ba Bà Ca Li”, ba tác giả thân quen với bạn đọc Viết Về Nước Mỹ.
Tác giả là nhà báo trong nhóm chủ biên một tuần báo tại Dallas, đã góp bài từ nhiều năm, từng nhận giải Vinh Danh Tác Giả Viết Về Nước Mỹ. Ông cũng là tác giả Viết Về Nước Mỹ đầu tiên có nhiều bài đạt số lượng người đọc trên dưới một triệu.
Tác giả là một chuyên gia phát triển quốc tế của USAID, sinh trưởng ở Bếntre, sang Mỹ năm 1973, đã về hưu từ lâu và đang định cư ở Orange County. Ông tham gia VVNM năm 2015, được chấm giải Danh Dự năm 2016 và giải á khôi “Vinh Danh Tác Phẩm” năm 2017. Bài mới của ông viết về bà Mẹ hơn 100 tuổi và tâm trạng tế nhị, phức tạp của người con khi cầu nguyện cho Mẹ thân yêu.
Nhạc sĩ Cung Tiến