Hôm nay,  

Tạ Ơn

31/12/200200:00:00(Xem: 139025)
Người viết: ÔNG VĂN QUYỀN
Bài tham dự số: 387-696-vb21230

Tác giả cư trú và làm việc tại Westminster, nghề nghiệp điện tử. Đây là bài viết thứ hai của ông, được viết với chân tình của người chồng, người cha.

Ngày xưa ỏ quê nhà khi còn thơ ấu , tôi thường nghe mẹ tôi nói
-Mẹ phải chịu đựng biết bao khốn khó, nhọc nhằn trong suốt thời gian cưu mang con trong bụng mẹ
-Mẹ phải banh da xẻ thịt để sinh con ra
Rồi khi lớn lên tôi vẫn thường nghe người ta nói đến việc sinh đẻ của người phụ nữ, tôi chỉ có thể hình dung được cái đau đớn ấy, khi mẹ tôi sinh tôi ra, và nghĩ đó chẳng qua cũng chỉ là định luật của tạo hóa, làm người đàn bà thì tất phải sinh đẻ khi có chồng .
Thời gian thấm thoát trôi qua, tôi lớn lên và lập gia đình, rồi đến ngày, một ngày mà chúng tôi chờ đợi sau hơn chín tháng .
Ngày 02 tháng 6 năm 1998, khoảng 4 giờ sáng, đang còn say ngủ, bổng tôi nghe vợ tôi kêu khẽ
-Anh ơi dậy đi, đưa em đi nhà thương
Tôi lồm cồm ngồi dậy, thì vợ tôi tiếp
-Nó ra nước lâu rồi, em mới tắm rửa xong, mà chưa nghe đau bụng
-Em có muốn ăn gì không "
Nói rồi tôi vội đi đánh răng rửa mặt, rồi nấu cho vợ tôi miếng mì, vì tôi thường nghe người ta nói, ( trước khi đi sinh, thì nên ăn một chút gì đó để cho có sức khỏe ) . Sau
khi vợ tôi ăn qua loa, tôi đưa vợi tôi ra xe, đem theo túi sách nhỏ, chỉ có ít đồ dùng như khăn và vài bộ đồ cho con tôi .
Chúng tôi vào tới nhà thương thì gần 5 giờ, lúc nầy vợ tôi chỉ đau bụng chút ít, sau khi được cô y tá cho thay quần áo và khám sơ cái bụng bầu của vợ tôi, cô rất niềm nở, vui cười với vợ tôi, rồi để vợ tôi nằm trong phòng chờ đợi . Lòng tôi cứ mãi nôn nao, hồi hộp, lo âu, không một chút an ổn, vợ tôi đã bắt đầu đau bung, tuy rằng chỉ rên khẽ, nhưng tay chân thì co rút, tôi biết vợ tôi đau nhiều lắm, không biết làm thế nào để chia sớt cái đau đớn ấy cùng với vợ mình, tôi cứ mãi ve vuốt, và cầu nguyện cho vợ tôi sớm qua được cơn đau đớn ấy, người y tá vẫn thường xuyên ra vào thăm lom và theo dõi tình trạng của vợ tôi .
Cứ như thế, vợ tôi cầm cự với cơn đau cho đến 9 giờ 30 sáng cùng ngày, thì cô y tá cho hay là vợ tôi sắp sinh .
Tôi không biết gì về việc sinh đẻ của người phụ nữ trên đất mỹ nầy, cứ tưởng họ sẻ đuổi ra và không cho vào phòng sinh như ở Việt Nam, nhưng không, thay vì đuổi tôi ra thì cô y tá lại trao cho tôi chiếc áo rồi bảo tôi mặc vào, cô làm những cử chỉ có vẻ vội vã lắm, rồi thì gọi điện thoại cho Bác Sĩ biết để đến phòng sinh, cô lo làm những công việc của cô, như một bài học thuộc lòng, cô sắp xếp thứ tự những thứ cần thiết để chuẩn bị cho việc sinh đẻ, một cách thật ngăn nắp . Tôi thì cứ vẫn bên cạnh vợ tôi, cố gắng làm những cử chỉ để san sẻ với vợ mình trong nỗi đau ấy, sau thời gian ngắn, người bác sĩ sản khoa đến, cũng là lúc vợ tôi dang trong cơn đau oằn oại trên giường sinh, người bác sĩ thay đồ xong là bắt tay ngay vào công việc .
Họ chỉ cho tôi nơi đứng và cách nắm tay vợ tôi thế nào, để gọi là giúp sức cho vợ tôi, đây là đứa con đầu, nên vợ tôi chẳng biết một chút gì trong việc sinh đẻ .
Người bác sĩ chỉ cho vợ tôi cách rặng đẻ, người y tá hỗ trợ bằng cách dùng tay đẩy bụng của vợ tôi như để tiếp sức khi vợ tôi rặng, rồi người bác sĩ bảo vợ tôi rặng, theo nhịp đếm của ông ta, cứ như thế đảo đi, đảo lại cả mấy lần, vợ tôi vẫn chưa sinh được .
Tôi thông cảm được cái đau đớn mà vợ tôi cưu mang, nhưng tôi đâu giúp được gì ngoài những lời an ủi và khuyến khích, trong phòng có máy điều hòa không khí, mà vợ tôi thì đã đổ mồ hôi, như thế cũng đủ biết là đau đến như thế nào .


Sau vài lần nữa cố gắng, cuối cùng, đứa con gái của tôi cũng đã được đưa ra khỏi bụng mẹ trong tiếng khóc tu oa, như có nhiều giận dỗi và tức tưởi, lòng tôi thật vô cùng vui sướng, tôi không thể diễn tả được bằng lời trong nỗi vui mừng ấy sau những lo lắng khôn cùng cho vợ tôi, vợ tôi lúc nầy như lả người đi, trông có nhiều mỏi mệt, nhưng trên nét mặt có nhiều niềm được hiện lên trong cơn mỏi mệt đó, sau khi đem con tôi ra, người bác sĩ trao nó cho người y tá, cô quấn con tôi vào chiếc khăn nhỏ rồi để tạm trên bụng vợ tôi một chút, sau đó cô đem qua bàn lau sơ rồi để lên bàn cân, đo, có đèn sưởi ấm, sau khi làm những công việc ấy, cô đeo vào cổ chân con tôi một vòng có số, tên mẹ, rồi trao cho tôi một chiếc mang vào cổ tay và cho biết để tôi dễ dàng vào ra nhà thương thăm vợ và con tôi trong thời gian vợ tôi còn trong nhà thương .Cô trao con tôi cho tôi bồng trong lúc cô lay hoay thu dọn phòng sinh, đến khi xong, cô đặt con tôi vào chiếc nôi để đưa con tôi đi khám tổng quát đầu tiên, và bảo tôi đi theo nếu muốn .
Cô y tá đưa con tôi đến một vị bác sĩ khác, họ khám mắt tai mũi họng, khám tay chân xem có bình thường không, họ làm một cách thật gọn gàng, sau cùng người bác sĩ nầy chích cho con tôi một mũi thuốc rồi tiếp tục đẩy con tôi đi, họ nói là đi tắm rồi để trong phòng em bé để y tá và bác sĩ theo dõi sức khỏe của em bé, giai đoạn nầy họ không cho tôi theo nữa, tôi phải trở lại nơi vợ tôi đang nằm, đến khi họ hoàn tất mọi thủ tục giấy tờ, rồi cho vợ tôi xuống phòng nằm tịnh dưỡng .
Sau hai ngày, vợ có chút bình phục sức khỏe, con tôi thì ăn ngon ngủ ngon, tôi được người y tá bảo đến văn phòng làm giấy xuất viện cho vợ, được họ đưa vợ con tôi ra đến tận xe, rồi chúng tôi cùng về trong một không khí vô cùng phấn khởi, vui tươi . Tôi bổng thấy mình như có muôn vàn hạnh phúc bên người vợ thương yêu và đứa con gái mụ mẫm mà tôi hằng ao ước .
Nhờ có những cơ may, được nhìn tận mắt sợ đớn đau của vợ mình trong việc sinh đẻ, có lẻ người đàn ông sẽ có nhiều cảm thông và thương yêu vợ mình nhiều hơn. Còn nơi quê nhà, có lẻ vì tập quán, hay vì sự kín đáo gì đó, người đàn ông không nhìn được tận mắt, để chia sớt niềm đau với người phối ngẫu của mình trong cảnh sinh nở.
Xin tạ ơn nước Mỹ, đã cho tôi được đến và hội nhập vào cuộc sống mới của một đất nước tự do, và đặc biệt là đã cho tôi được chứng kiến và nhìn thấy sự đau đớn của người đàn bà đã banh da xẻ thịt để sinh ra người con, mà họ đã cưu mang .
Không giống như khi còn ở quê nhà, tôi thường thấy người phi nữ mang bầu, khi đến ngày sinh nở, có người chỉ một mình đơn độc xách gói đi đến nhà thương, để rồi trong nỗi đớn đau vô vàn đó, bên cạnh họ không có lấy một người thân, nhất là người chồng yêu thương của họ.
Rồi với tình yêu thương mà tôi dành cho con gái tôi, có nhiều chiều chuộng hơn là đứa con trai, cho nên trong sinh hoạt gia đình vợ tôi thường hay nói đùa với tôi
-Sao anh trọng nữ khinh nam vậy "
-Thì mai sau khi lớn lên, làm thân con gái có lẻ phải chịu nhiều đắng cay hơn, cho nên tôi cho nó nhiều tình yêu thương hơn, chỉ có vậy thôi
Trên đây chỉ là ý nghĩ của riêng tôi .
Tạ ơn nước mỹ một lần nữa, đã tạo cho tôi có những cơ may để hồi tưởng về người mẹ, đã từng banh da xẻ thịt để sinh tôi ra, mà đã hơn nửa đời người tôi mới được chứng kiến, sự sinh đẻ của người phụ nữ, tôi thắm thía được nỗi đớn đau mà từ bấy lâu nay, tôi chỉ có một chút hình dung trong muôn ngàn đau đớn, trong việc cưu mang và sinh đẻ .
Tạ ơn mẹ đã cưu mang và sinh dưỡng để cho con có được một hình hài nguyên vẹn của con người, cho con có được ngày hôm nay.
Tạ ơn người vợ yêu quí của tôi, đ Tôi không thể đau thế cho vợ, nhưng có lẻ vợ tôi hiểu cho người chồng đã san sẻ trong tinh thần những đớn đau khi sinh nở .
- Tạ ơn nước Mỹ, đã cho tôi có được cơ may nhìn thấy nỗi đớn đau oằn oại của người phụ nữ trên giường sinh .
- Tạ ơn Mẹ, đã cưu mang sinh dưỡng cho con có tấm hình hài nầy .
- Tạ ơn em, người vợ yêu quí của anh, đã cưu mang và chịu đựng những đau đớn, đắng cay, để sinh ra cho tôi những đứùa con mụ mẫm xinh xắn, vun đắp yêu thương hạnh phúc cho gia đình.
Westminster, Ngày 22 tháng 12 năm 2002
Ông Văn Quyền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 844,249,832
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY đăng 2 kỳ.Tiếp theo và hết.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY được ghi “Hè 2019, kỷ niệm 30 năm tìm được “cái xương sườn cụt của tôi”. Bài đăng 2 kỳ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ sáu của bà kể về mùa lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, Bà tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài viết thứ 7 của bà được viết trong ngày lễ Phật Đản.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Lần đầu góp bài dự Viết Về Nước Mỹ, ông đã liên tiếp nhận các Giải Biệt VVNM 2017; giải Danh Dự VVNM 2018. Sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada từ năm 1981. Mong bà tiếp tục viết.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bai mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết. (Ấn bản chủ nhật có sự sai sót. Xin đăng lại phần đúng và trân trọng cáo lỗi.)
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19. Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19.
Nhạc sĩ Cung Tiến