Hôm nay,  

Giã Từ Thơ Ấu

17/06/200200:00:00(Xem: 160620)
Người viết: Hạ Miên
Bài tham dự số: 2-557-vb50529
Hạ Miên là bút hiệu của một nữ chuyên viên thuế vụ, làm việc cho Sở Thuế ở một tiểu bang xa, ít có dịp “nhai” chữ Việt, “nuốt” tiếng Việt.
Tình cờ gặp Vietbao Online đúng vào cuối tháng Tư, đọc Viết Về Nước Mỹ, bà bắt đầu viết. Sau đây là bài viết thứ tư của bà.


Trời rất lạnh vào đêm mẹ tôi qua đời. Khi ấy tôi vừa 21, và mẹ chỉ già hơn tôi bây giờ vài tuổi.
Là một người đàn bà trẻ, hao mòn theo năm tháng vì gánh nặng năm đứa con và bệnh tật, mẹ trông già hơn tuổi rất nhiều. Tấm thân còm cõi đến cuối đời chỉ còn lại một nắm xương và làn da xanh xao, nhưng đôi mắt mẹ rất sáng, rất trong. Ít nhất thì đó cũng là hình ảnh mẹ trong tôi mãi mãi như vậy dù đã 20 năm qua đi.
Tôi còn nhớ đêm ấy, đêm đầu tiên sau nhiều tháng dài, chúng tôi quây quần trong phòng khách ở nhà. Năm chị em tôi ngồi co ro trên sa lông cạnh lò sưởi, bố tôi ngả người trên lưng ghế bành gần lối đi vào phòng ăn, mắt nhìn chằm chằm lên trần. Thật lâu, cho đến khi đứa em út tôi tụt xuống ghế đến bên bố, hỏi:
- Bố ơi, mẹ đâu rồi" Sao hôm nay mình không vào thăm mẹ"
Tất cả chúng tôi quay lại nhìn nó, nhìn bố, chờ đợi.
- Ơ... ơ...ờ, hôm nay mẹ khỏi bịnh, mẹ đi thăm bà ngoại ở Việt Nam rồi.
- Thế bao giờ mẹ mới về"
- Vài tuần nữa, mẹ phải ở đãy săn sóc bà.
Bố trả lời em tôi, cố làm ra vẻ tự nhiên.
Tôi nghe dường như cái gì vỡ vụn trong lồng ngực, chỉ muốn bật khóc. Tôi nhìn em, nhìn bố, rồi nhìn hình mẹ treo trên tường. Mẹ đang cười nhìn tôi, như trước khi ra đi. Hàm răng mẹ trắng đều, ánh mắt sâu lắng, mẹ như đang dặn tôi hãy thay mẹ lo cho các em.
Bố và tôi đêm ấy tình cờ đã đồng ý không nói đúng về những gì đã xảy ra với các em tôi. Chúng còn quá bé để thật sự hiểu nỗi đau mất mẹ ấy. Đứa em kế tôi mới 12, đứa út chưa đầy 4 tuổi, và tôi, dù đã hơn hai mươi, tôi thật lòng cũng không biết sự mất mát ấy to tát như thế nào. Mãi nhiều năm sau, khi tự hiểu về điều này, chúng tôi mới cảm thông được tâm sự của bố đêm ấy và của nhiều năm kế tiếp.
Em gái tôi gần đây bảo tôi trong ngày giỗ mẹ:
- Suốt năm năm sau đấy em đã chờ mẹ trở về từ nhà bà ngoại. Em cứ tự hỏi và tự an ủi là 'chắc bà ngoại bịnh nhiều lắm', cho đến khi một đứa bạn trong lớp vô tình bảo em: "Mày không có mẹ!" Em tức lắm, muốn đấm cho nó vài cái, nhưng đang giờ học, nên thôi. Và suốt buổi em cứ cố nhớ lại những gì xảy ra... Cuối cùng em đã hiểu 'quả thật mẹ đã chết rồi.'
Có lẽ thật kỳ quặc khi tôi bắt đầu câu chuyện đời mình, viết về đời mình, bằng sự ra đi của mẹ tôi.
Tôi mê được viết báo khi tôi còn rất trẻ. Tốt nghiệp khoa báo chí với số điểm khá cao càng làm tôi tin là tôi sẽ viết giỏi, hay ít nhất cũng xứng đáng cầm bút, nhưng cái nghiệp viết lách đã chỉ bắt đầu vài năm gần đây.
Tôi còn nhớ, đó là lần đầu tiên tôi cầm bản thảo ký sự của mình đến gặp chủ nhiệm một tờ báo điạ phương bang Louisiana. Vừa muốn kiếm một công việc ngay sau khi tốt nghiệp, vừa rất tự hào về khả năng của mình, tôi kiên nhẫn ngồi nhìn ông chậm rãi đọc mấy trang giấy tôi đã đánh máy thật cẩn thận. Cuối cùng ông ngẩng lên nhìn tôi, tay đẩy nhẹ xấp giấy ra cạnh bàn về phía tôi, ông bảo:
- Cô viết khá lắm, đủ để viết, nhưng chưa đủ để gây tiếng vang cho một bài ký sự.


Tôi có cảm giác như ai đó bỏ vào lưng áo tôi một cục đá, nó chạy dọc xuống sống lưng tôi, làm tôi rùng mình. Từ khi mẹ tôi qua đời cho đến hôm ấy, chưa có ai cho tôi những lời nhẹ nhàng mà nghiêm khắc như vậy. Tôi muốn đứng dậy bỏ ra về ngay, nhưng chân tôi dường như đóng băng. Ông chủ nhiệm hỏi thêm tôi về việc học ở trường, dự tính cho tương lai v.v. tôi chỉ trả lời như người vô hồn. Cầm chắc sự thất bại trong tay, tôi chạnh nhớ đoạn đường 30 miles về nhà. Cuối cùng ông hỏi thêm tôi về Information system, tôi trả lời nhưng thầm nghĩ 'Hỏi để làm gì chứ"' Chính lúc ấy ông bảo tôi:
- Chúng tôi có thể mướn cô lúc này, nhưng không phải làm một columnist, mà tạm thời đặt cô vào vi trí chọn lọc thư từ, bài vở, cô nghĩ sao"
Lúc ấy tôi vừa tự ái, vừa mừng. Tự ái vì ông chê tôi chưa đủ khả năng; mừng vì tôi có thể đi làm ngay, không phải lê cái đơn xin việc đi gõ cửa từng nơi môt rồi đợi dài cổ như mấy đứa bạn tôi từng kể.
Bây giờ tôi mới hiểu được ông đã nói đúng. Tôi có thể viết, nhưng viết bằng xúc cảm thì chưa.
Tôi đi làm. Khi thật sự bước chân vào đời, không phải ngay sau khi mất mẹ - phải cáng đáng công việc săn sóc các em, tôi mới nhận ra rằng tôi sẽ phải tự lo cho mình và làm cho đời mình có ý nghĩa. Đó cũng là điều tôi còn phải tiếp tục mãi.
Nhiều năm qua rồi, mọi thứ chừng như bình thường ngày lại ngày, nhưng khi mới bắt đầu quả thật chẳng dễ mà còn đáng sợ nữa.
Cho đến lúc ấy, lúc tôi mới phải đi làm để kiếm sống, không phải tôi mà là cuộc đời lèo lái tôi. Tôi hình như chẳng có gì để tự quyết định hay phải quyết định; phần thì do tôi chẳng được phép làm vậy, mọi thứ đã có mẹ, hoặc bố tôi quyết định; phần thì tôi chỉ thấy tôi trên đời sống của tôi, không ai khác bên trên cái tôi ấy. Tôi đi học, học khá giỏi; về nhà, ăn tối, hoàn tất bài vở rồi đi ngủ. Tôi lo cho các em chỉ là giúp chúng thay khăn trải giường, thu dọn bếp, hay chơi với chúng. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có cãi nhau, tôi nhịn hoặc bắt chúng im; tất cả chỉ là tôi, chứ không ai khác. Tôi thương bố tôi, gà trống nuôi con và nuôi rất tận tình; tôi giúp đỡ, hỏi han bố, nhưng tôi chưa bao giờ đặt tôi vào cương vị của bố để hiểu bố. Tôi thấy bất lực ngay cả khi muốn làm như vậy, nhưng tôi hạnh phúc vì đã không làm người lớn quá sớm.
Mẹ tôi qua đời chỉ vài năm sau khi bà đặt chân đến Mỹ cùng với bố tôi. Cuộc sống nơi vùng đất mới tuy dễ chịu hơn quê nhà, nhưng các em tôi liên tiếp ra đời làm mẹ tôi kiệt quệ, thêm bệnh suyễn lâu năm làm mẹ dường như không chịu nổi cái lạnh ôn đới. Những năm ấy, nơi này, những cấm kỵ tôn giáo cũng đã nới lỏng để các tín đồ Thiên Chúa Giáo không còn cảm thấy tội lỗi khi dùng thuốc tránh thai. Chính lúc ấy mẹ tôi ra đi. Tôi học làm người lớn không có sự dìu dắt của mẹ, nhưng tôi chắc mẹ cũng như tôi mù mờ trong cái thế giới tự do này.
Bây giờ thì tôi ý thức được rằng tôi chỉ là một trong nhiều phụ nữ khác, da trắng cũng như da màu, cùng cảm thấy thú vị về sự may mắn đã không sinh ra sớm hơn và không thuộc về thế hệ trứơc, nơi một thời đã có biết bao điều cấm đoán dễ sợ đến ngớ ngẩn.
Tôi cũng đồng thời hiểu được rằng từ đãy, từ lúc rời xa ngôi nhà có hình bóng của mẹ và sự che chở của bố, cũng là lúc tôi phải chấp nhận những sự thật rất đơn giản - phải kiếm sống, phải tự quyết định về những điều mình muốn làm cũng như làm sao để làm được, và phải xây dựng lấy một mái ấm riêng cho mình.Đó cũng là lúc tôi phải từ bỏ tháp ngà của mình, từ giã tuổi ngây thơ để làm người lớn; hiểu được ý nghĩa của cuộc sống từ cái chết.
Ngôi nhà nơi tôi lớn khôn, chứng kiến những ngày cuối cùng của mẹ tôi, đã không còn nữa. Nó đã sang chủ mới, nhưng từ đó ra đi, tôi đến ở trong một ngôi nhà lớn hơn, ngôi nhà Cuộc Đời. Và tôi tin mẹ tôi cũng vẫn đang ở bên tôi.
Hạ Miên
Tặng bạn tôi Hoài An

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> http://youtu.be/J5Gebk-OVBI
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tạo bài viết
Tổng số lượt xem bài: 834,282,111
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY đăng 2 kỳ.Tiếp theo và hết.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ từ 2011. Tên chàng là Nguyễn Thy, ông xã của tác giả Nguyễn Trần Phương Dung, giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2011. Hai mươi năm, bộ sách lịch sử ngàn người viết đưa tới nhiều thân tình giữa các tác giả. Bút hiệu 'Tê Hát I Cờ Rét' được chọn theo cách Cụ bà Trùng Quang gọi tên chàng theo lối đánh vần kiểu Bắc kỳ cũ. Bài viết mới nhất của THY được ghi “Hè 2019, kỷ niệm 30 năm tìm được “cái xương sườn cụt của tôi”. Bài đăng 2 kỳ.
Tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ 2019 khi gần 90 tuổi. Bà tên thật là Nguyễn thị Ngọc Hạnh. Trước 1975, là giáo sư đệ nhị cấp tại Trung học Nguyễn Trãi. Cùng gia đình tới Mỹ từ 1979, hiện là cư dân hưu trí tại miền Đông. Bài viết thứ sáu của bà kể về mùa lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2019 tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
Tác giả lần đầu tiết về nước Mỹ từ tháng 11, 2018, Bà tên thật là Nguyễn thị Minh Thuý sinh năm 1955. Qua Mỹ năm 1985, hiện là cư dân thành phố Hayward thuộc Bắc Cali và còn đi làm. Bài viết thứ 7 của bà được viết trong ngày lễ Phật Đản.
Tác giả là một cựu tù cải tạo vượt ngục và là người lái tầu vượt biển tới Philippine năm 1989. Định cư tại Mỹ từ 1990, ông hiện là cư dân Vail, Arizona, làm việc theo một hợp đồng dân sự với quân đội Mỹ, từng tình nguyện tới chiến trường Trung Đông và Châu Phi. Lần đầu góp bài dự Viết Về Nước Mỹ, ông đã liên tiếp nhận các Giải Biệt VVNM 2017; giải Danh Dự VVNM 2018. Sang năm 2019, ông góp thêm 7 bài viết mới. Hai bài tiêu biểu: "Đời Phi Công...Không Người Lái," và bài mới nhất, "Philippinnes, Ngày Trở Lại": người thuyền nhân trại Pallawan 30 năm trước, nay là một công dân Mỹ trở lại giúp mảnh đất ơn nghĩa năm xưa chống khủng bố.
Chào mừng tác giả lần đầu dự Viết Về Nước Mỹ. Bà cho biết là nhà giáo về hưu, sống tại Canada từ năm 1981. Mong bà tiếp tục viết.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Bai mới đăng 2 kỳ. Tiếp theo và hết. (Ấn bản chủ nhật có sự sai sót. Xin đăng lại phần đúng và trân trọng cáo lỗi.)
Tác giả là nhà báo quen biết trong nhóm chủ biên một số tuần báo, tạp chí tại Dallas. Ông dự Viết Về Nước Mỹ từ 2006, đã nhận Giải Danh Dự, thêm Giải Á Khôi, Vinh Danh Tác Giả VVNM 2016, và chính thức nhận giải Chung Kết Tác Giả Tác Phẩm 2018. Sau đây thêm một bài viết mới.
Định cư tại Mỹ từ 1994, Phương Hoa vừa làm nail vừa học. Năm 2012, bà tốt nghiệp ngành dạy trẻ tại Chapman University khi đã 62 tuổi và trở thành bà giáo tại Marrysville, thành phố cổ vùng Bắc Calif. Với loạt bài về Vietnam Museum, "Bảo Tàng Cho Những Người Lính Bị Bỏ Quên," tác giả đã nhận giải chung kết 2014. và vẫn tiếp tục gắn bó với Viết Về Nước Mỹ. Sau đây, thêm một bài viết mới.
Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19. Tác giả tên thật Tô Văn Cấp, sinh năm 1941, khoá 19 Võ Bị, 50 năm lính với Chiến Thương Bội Tinh. Mậu Thân 1968, ông là một Đại Đội Trưởng Thuỷ Quân Lục Chiến tại trận địa Phú Lâm, Chợ Lớn. Tháng Tư 1975, ở với đồng đội ven đô cho tới giờ phút cuối, sau đó là 10 năm tù công sản. Định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO1, dự Viết Về Nước Mỹ từ năm đầu, với nhiều bài viết giá trị, ông đã nhận giải á khôi năm 2014. Tác phẩm đang trình làng: Nửa Đường. Kính mời tham dự buổi ra mắt trưa Chủ Nhật 2-6-19.