Làm giàu ở đất Mỹ đã khó, chết đói còn khó hơn, nhưng cố gắng hội nhập để có cơ hội thăng tiến là điều có thể thực hiện được. Thăng tiến xin hiểu bao gồm cả về kiến thức, học vấn và nghề nghiệp.
Gia đình tôi gồm hai vợ chồng và bốn cháu nhỏ, đến Mỹ năm 1992. Việt Nam, trong thời đoạn ảm đạm của lịch sử ngày ấy, nhân sinh đôi khi khóc hay cười cùng một nghĩa như nhau. Người được ra đi, ngoài nỗi hạnh phúc được đến một xứ sở tự do, còn có thêm niềm hân hoan khi được từ giã cõi thiên-đường-không-có-thật. Điểm tích cực, người ta có thêm phấn khích để tạo dựng cuộc sống trên đất mới. Điều không may, đôi người có cảm giác như đang bay bổng trên mây và sau đó... dù không chịu mở.
Loài cá sinh trưởng ở vùng nước ngọt tìm cách hòa nhập vào dòng sống mãnh liệt, đa dạng của đại dương bao la, do vậy, tiến trình hội nhập không ít gian nan. Hơn nữa, lộc cộc đôi guốc Xã Hội Chủ Nghĩa gần 20 năm, chỉ một chuyến bay vượt đại dương đến một xứ sở văn minh nhất hành tinh, chắc chắn ai cũng cảm thấy choáng ngợp, bỡ ngỡ, xa lạ.
Trở ngại về ngôn ngữ, khác biệt về hệ thống xã hội, phong tục, tập quán, những mâu thuẫn, va chạm văn hóa... Do dự khi cần phải thải loại; trăn trở, cân phân để tiếp nhận cái khác nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc, mọi việc không phải lúc nào cũng dễ dàng. Ngay cả nếu muốn sống hòa nhập với hết mọi người Việt đồng chủng tại Little Sàigòn, quận Cam là nơi tôi đang cư ngụ, người ta cũng cần phải có một cái bụng từ tâm của một vị Phật, một nụ cười miên viễn bất kể buồn vui trên khuôn mặt của một ông Địa để có thể dung chứa hết những ý kiến, quan điểm đôi khi trái ngược nhau đến độ tưởng chỉ có thể có được ở những con người sống trên những thiên hà khác nhau.
Sau thời gian vật lộn với đủ thứ nghề: làm may, chợ trời, assembly... thường là minimum wage, năm 1996, tôi suy nghĩ và tự hỏi "Ở đây học hành dễ dàng, tại sao mình không đi học, may chăng đời sống khá hơn"".
45 tuổi, nói đến đi học là đã thấy ngán ngẩm. Vốn liếng học hành năm xưa, dọc đường chiến tranh và tù ngục, chữ thầy trả cho thầy dẫu chưa hết thì cũng đã gần hết. Ngày mới tới đây, tiếng Anh của tôi chỉ đủ để nói chuyện bằng tay; tôi thank you tưới sượi những ai nói tiếng Anh với tôi mà cũng không biết rằng trong câu nói, người ta có . . ."fuck" mình hay không. Một số người còn cho rằng, mình đã lớn tuổi, học xong thì đã già, ai thèm mướn mình. Tôi lập luận, nếu có học hành, dẫu cơ hội có ít nhưng cóù còn hơn không.
Thế là bắt đầu những tháng ngày miệt mài, ban ngày assembly, tối đến trường. Trí óc con người thật kỳ diệu, những điều học cách nay gần 30 năm, tưởng đã tan biến, nhưng khi đi học trở lại, những ngăn ký ức bật mở, nhớ lại. Anh văn, toán, lý, hóa, sinh... từng mùa học với những cam go qua dần. Lớp Bio, ông thầy nói lẹ như gió, ngay cả học sinh Mỹ cũng phải thẩy recorder lên bàn ào ào, tôi vào ca assembly, cắm earphone vào tai, nghe đi nghe lại. Lớp Social Science, gặp ông thầy là một bình luận gia chuyên đề về xã hội cho một đài phát thanh, ông ta bắt học sinh nghe bài và chương trình hội thoại của ông ta trên đài, rồi viết bài tóm lược. Cuối mùa, tôi đến cám ơn ông ta vì nhờ vậy mà tôi đã nghe và hiểu những talk show trên radio và T.V.
Mùa Fall 1998, vẫn làm assembly full time, tôi gồng mình ghi danh 15 units, cho đủ lớp để lấy bằng Associate, trong đó có một lớp khó gặm trần ai, lớp văn chương Anh văn, kịch, thơ.
Rất nhiều lần máu lính nổi lên, tôi lầm bầm chửi thề:"Ông Shakespeare ơi, ông làm khó tôi, viết kịch thơ Othello, sao ông xài toàn cổ ngữ, khó hiểu thấy mẹ". Những buổi đi xem kịch và nghe ngâm thơ đến lùng bùng lỗ tai. Những đêm gục ngủ vùi trên bàn phòng lab, người instructor phải đánh thức dậy cho về. Không biết thần lực nào đã giúp tôi vượt qua những giai đoạn mệt mỏi đến tận cùng thể xác và trí não như thế. Cuối năm đó tôi lấy được A.S.
Có được mảnh bằng nho nhỏ, tôi tạm ngừng học để tìm job. Tôi sục sạo mọi nguồn job: Trường học, thư viện, báo chí, job fair... Cứ nghe chỗ nào có job mở là tôi nhào tới. Tôi lục tung thư viện mượn sách học về cách săn job, cách viết résumé, cách sửa soạn quần áo và trả lời khi vào phỏng vấn. Té ra, học lấy bằng đã khó, tìm được job cũng không dễ dàng. Có hai yếu tố khắc nghiệt nhất khi đi xin việc, tôi lại "được" cả hai.
Thứ nhất là tuổi tác, người ta mướn một em đôi mươi, nõn nà để còn vừa làm việc vừa ngắm chứ mướn chi thằng cha già dai nhách.
Thứ hai là kinh nghiệm, muốn làm volunteer mà không có kinh nghiệm, người ta còn không muốn nhận, sợ mình làm hư việc.
Chồng hồ sơ lưu trữ đơn xin job mỗi ngày một dầy thêm mà vận may vẫn chưa đến. Résumé mỗi ngày một ngắn gọn súc tích hơn. Những lần đầu phỏng vấn còn e dè, ngượng ngập, sau đó quen dần; về technique, mỗi công ty hỏi có hơi khác, nhưng về personal, thường thì câu hỏi giông giống nhau, những câu trả lời ngày càng sắc nét hơn.
Có hôm vào phỏng vấn tôi còn dám dọa già dọa non: "Tôi phải cáng đáng một gia đình 06 người với đồng lương minimum, do vậy, một phần tôi phải sống dựa vào trợ cấp xã hội. Tôi đã phải cố gắng học hành để có công việc tốt hơn. Tôi đến xứ sở này không phải để sống nhờ vào trợ cấp xã hội, tôi muốn là một taxpayer, tôi không muốn là một gánh năïng cho xã hội. (Ý hăm rằng nếu quý ông mà không nhận tôi, tôi sẽ tiếp tục bắt vạ ông Clinton phát check xã hội cho tôi hàng tháng, cho quý ông mặc sức mà đóng thuế). Vẫn không có kết quả, các em job thơm phức vẫn lừng lững đi qua đời tôi rồi. . . đi luôn.
Tôi bắt đầu nản lòng thì may sao gặp được một sư phụ. Ông này tâm sự: "Tôi vượt biên sang đây năm 80, lấy xong Bachelor thì đã ngoài 40. Trong vòng sáu tháng, tôi gởi đi khoảng hai trăm tờ đơn xin job. Cuối cùng, tôi có được một cái đáp số. Tôi giữ được job ấy đã 12 năm nay; bây giờ, trong công ty tôi thuộc loại thâm niên". Và ông ta khuyên tôi:
-Thứ nhất, chú em phải kiên trì.
-Thứ hai, đừng dính cứng vào chuyên ngành computer programming của chú, bung rộng lãnh vực tìm job ra, xin luôn những job nào có liên hệ xa gần với nó, thí dụ như việc văn phòng. Office nào bây giờ người ta cũng cần người biết sử dụng computer, cứ xin vào làm lấy kinh nghiệm rồi sau sẽ tính.”
Được cố vấn và khuyến khích, tôi lấy lại tinh thần, tiếp tục lên đường. Trong thời gian này, tôi xin được vào làm trong Disneyland, custodian. Công việc nhàn hạ, môi trường vui nhộn, 08$/giờ. Tôi có chút thuận lợi, như sách vở có nói, người ta sẽ tự tin hơn khi vào phỏng vấn nếu trong tay người ta đang giữ một job tàm tạm. Chỗ nào gọi đi phỏng vấn tôi cũng đi; chỉ việc lên đồ cho người ta ngắm rồi... quay mình như dế. Mỗi lần thất bại, tôi lại tự an ủi "Thất bại chẳng những là mẹ mà còn là bà cố nội của thành công. Cứ cố gắng, thể nào cũng có ngày mèo mù vớ cá rán".
Có hôm thấy cảnh sát hình sự tuyển nhân viên hành chánh, tôi cũng điền đơn luôn. Sau khi qua được kỳ thi viết, họ cho hẹn ngày giờ phỏng vấn và đây là cuộc phỏng vấn đáng ghi nhớ. Trước khi vào phỏng vấn -đúng hơn phải gọi là thẩm vấn- tôi phải viết trả lời một trăm câu hỏi được in sẵn trong vòng một tiếng, phần lớn là hỏi về quá khứ và án tích của mình nếu có. Sau đó là cuộc phỏng vấn kéo dài khoảng hai tiếng.
Phỏng vấn viên là một ông cảnh sát, khoảng trên năm mươi tuổi. Ôâng ta hẳn phải là một chuyên gia về hình sự, và chắc phải cả về tâm lý nữa. Nhiệm vụ của ông ta là tìm cho ra những gì mình còn giấu giếm trong bản trả lời và tìm hiểu thêm về cá tính cũng như khả năng của mình. Sau khi quay tôi một hồi, đột nhiên ông ta ngừng lại, chăm chú nhìn tôi vài giây, rồi hỏi:
- Trong thời gian chiến tranh Việt Nam, bạn có ở trong quân đội không"
- Có. Tôi trả lời.
- Thế tại sao bạn không viết vào mục quá trình phục vụ trong quân ngũ"
- Tôi chỉ là cựu quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tôi biết tôi có viết vào các ông cũng không tính, cho nên tôi không viết.
Tôi đã có kinh nghiệm về vấn đề này khi được phỏng vấn ở quận Los Angeles. Người cựu quân nhân Mỹ phỏng vấn cùng đợt với tôi, anh ta được 85 điểm cộng thêm 10 điểm credit của cựu quân nhân thành ra 95 điểm. Còn tôi chết cứng với số điểm nguyên thủy 90, gặm nhấm nỗi buồn cựu quân nhân của xứ nhược tiểu. Trên waiting list, mình thua người ta 5 điểm, tên mình xếp sau cỡ một cây số.
Người cảnh sát mở ngăn kéo, lấy ra một xấp giấy trắng và một cây viết đặt lên bàn rồi nói:
- Về phương diện chuyên môn nghề nghiệp, chúng tôi lại cần biết những điều ấy. Vậy nếu có thể được, xin bạn viết xuống những điều bạn đã làm trong thời gian bạn ở trong quân ngũ. Thời gian, đơn vị, nơi chốn bạn đã từng phục vụ, càng chi tiết càng tốt. Bạn có năm phút.
Đông Phong