Nước Mỹ Là Thiên Đàng"
Tác giả: Đinh Quân
Bài số 284-16208751- vb572309
Tác giả tên thật là Đinh Văn Tiến Hùng, một cư dân cao niên tại Anaheim, Nam California. Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là câu chuyện phấn đấu của cả một gia đình tại đất Mỹ, với nhiều trăn trở, vấn vương. Mong Đinh Quân sẽ tiếp tục viết thêm.
***
Gia đình tôi đặt chân lên đất Mỹ đúng vào đêm trước lễ Độc lập Hoa-Kỳ (July 4th). Những ngọn pháo bông nở rộ muôn màu, sáng rực trời đêm thị trấn nhỏ miền Đông Bắc. Tôi mỉm cười nhủ thầm : pháo bông mừng lễ hay chào đón ta bước vào cuộc sống mới nơi ‘Thiên đàng hạ giới”"
Thiên đàng hạ giới, tôi nhớ hình như câu nói này mới chỉ phát xuất nơi cửa miệng người dân sau khi Cộng Sản Bắc Việt xâm chiếm Miền Nam năm 1975 – chúng ồ ạt như một bọn cường khấu vội vã ‘vào, vơ vét ,về - phút chốc biến người dân trở thành chuyên chính vô sản thật đúng nghĩa!
Không đâu bằng Quê Hương mình– một chân lý mà bất cứ dân tộc nào cũng công nhận. Người Do Thái lưu lạc muôn phương mong ngày trở về Miền Đất Hứa. Những người lính viễn chinh Pháp gồm nhiều quốc tịch: Algerie, Maroc, Senegal, Việt Nam… lang thang qua nhiều chiến trường thuộc địa vẫn ngóng đợi ngày “giã từ vũ khí” trở lại cố hương. Trước năm 75 nhiều du học sinh và sĩ quan Việt Nam qua Mỹ hay các quốc gia du học, sau khi mãn khoá cũng vội vàng trở về Nước.
Tôi biết một sĩ quan cùng binh chủng, anh sang Hoa Kỳ thụ huấn về Lực lượng Đặc biệt (Green Berets) tại Fort Bragg. Anh có một mối tình rất thơ mộng với cô nữ sinh tóc vàng và được cha mẹ cô cho đi lại trong suốt khoá học như người con trong gia đình, cùng lời hứa thừa kế tài sản và nông trại nếu anh đồng ý kết hôn với con gái họ. Tương lai tốt đẹp đang chờ đón anh. Nhưng anh đã can đảm chia tay người yêu để trở về nước lòng tuy buồn, nhưng trong anh dâng lên niềm tụ hào vì mình đã chọn đúng . Phải chăng tình yêu giành cho Tổ Quốc vẫn trên hết"
Tất cả chúng ta đều gắn bó với Quê Hương Việt Nam thân yêu. Lịch sử dân tộc chứng minh hùng hồn điều ấy. Suốt hai ngàn năm Bắc thuộc và gần 100 năm Pháp đô hộ, tổ tiên ta luôn bám vững mảnh đất gia phả thân thương. Nhưng từ sau năm 75 bọn CSBV đã biến chúng ta bất đắc dĩ thành kẻ phải rời bỏ Quê Hương. Khi Đất nước mình biến thành nhà tù vĩ đại, chúng ta phải khắc khoải tìm kiếm một “Thiên đường hạ giới” cho mình và con cháu mai sau được ngẩng mặt sống tự do hạnh phúc.
Những ngày đầu nơi xứ lạ
Tiền trợ cấp chỉ đủ chúng tôi thuê căn nhà nhỏ và mua thực phẩm sống qua ngày. Hàng ngày cả gia đình đến trường trau dồi thêm chút vốn Anh ngữ. Tôi nóng lòng ghi tên học thêm lớp tối.
Tan lớp vội vàng băng qua lối tắt khu Housing về nhà. Bỗng trong bóng tối 3 tên da đen xuất hiện, bắt tôi giơ tay chúng lục soát kiếm tiền. Là một quân nhân đã từng sống chết cận kề trong chiến trận, nên tôi rất bình tĩnh. Tìm kiếm không thấy tiền một tên ra hiệu bỏ đi. Ngày hôm sau, tôi kể truyện với cô giáo, cô khuyên đừng đi trong ngõ hẻm, cứ ra đường chính mà đi vì luôn có xe Cảnh sát tuần tiễu qua lại,chúng không dám lộng hành.
Thứ sáu hàng tuần tôi lội bộ gần 2 cây số đến Hội USCC nhận tiền trợ cấp và theo dõi xem có công việc gì làm thêm. Hội cho biết các nông trại đang mùa thu hoạch cần một số nhân công. Nếu muốn đi làm hội sẽ giới thiệu nhưng phương tiện phải tự túc. Chúng tôi liên lạc được một đồng hương sẵn sàng chở đi về trên lộ trình gần 10 cây số, mỗi người 5 đô la. Mùa này thường có những cơn mưa kéo dài nên vợ tôi chuẩn bị cho mỗi người một tấm vải nhựa và chiếc nón lá (do em tôi đem qua theo lời yêu cầu của người bạn cần cho sinh hoạt văn nghệ Cộng đồng vào các dịp Lễ, Tết…)
Sáu giờ sáng ngày thứ hai xe đón chúng tôi tại điểm tập trung. Xe chày lòng vòng đường phố một lúc ra tới ngoại ô. Nhìn nông trại bát ngát nối tiếp nhau hai bên đường, mới thấy sự phì nhiêu sung túc của đất nước người mà thương cho thân phận chân lấm tay bùn người dân nước mình! Ông chủ trại cao lớn vạm vỡ đón chúng tôi đầu đường đưa vào nông trại. Sau khi xem giấy giới thiệu, ông chia 8 người chúng tôi thành hai toán : 4 đàn ông phụ trách hái bắp, 4 bà hái dâu. Mọi người ngồi trên thùng xe được máy cày kéo ra khu thu hoạch. Toán bẻ bắp nhận một số bao bố, đi dọc từng hàng chất bắp vào bao. Toán hái dâu lom khom vạch lá lựa những trái chín bỏ vào giỏ. Chừng mỗi tiếng đồng hồ xe ra lấy đưa về kho. Chúng tôi 2 người trên xe, 2 người dưới đất chạy lúp xúp theo chất hàng lên… 12 giờ được nghỉ nửa tiếng ăn trưa. Những lon đồ ăn đặt trên tấm ni-lông trải xuống đất. Tất cả quây quần ngồi ăn chung vui vẻ và thân tình. Ai nấy mồ hôi nhễ nhãi, quần áo lấm lem, vừa ăn vừa chuyện trò. Nghĩ đến câu “Vạn sự khởi đầu nan”nên không ai quản ngại khổ cực. Nhiều hôm tới nơi làm chưa được 1 tiếng, cơn mưa ào ào đổ xuống, chủ trại cho vào kho tạm nghỉ. Nhìn quanh căn nhà ọp ẹp, chất đầy dụng cụ nông trại, những khe nứt nước tràn vào vàng úa, mùi ẩm mốc xông lên… Tôi nghĩ chắc mấy chục năm trước đây là căn lều “Chú Tom” người nô lệ da đen cư ngụ, giờ giành cho những “tá điền da vàng” tạm trú"
Bầu trời còn xám xịt, mưa vẫn ào ào trút nước, báo hiệu cơn mưa có thể kéo dài suốt ngày, chủ trại liên lạc gọi xe đưa chúng tôi trở về khi chưa đủ tiền trả một ngày xe.
Sau một tháng, mùa thu hoạch đã xong, sắp đến ngày tựu trường của các cháu, phải chuẩn bị cho chúng đi học. Không có phương tiện dù chỉ một chiếc xe đạp cũ, tôi lang thang tìm đường đi lối tắt gầnhơn, giúp các cháu tới trường đỡ vất vả. Mùa hè qua mau, các em ríu rít trở lại trường như bày chim non lìa tổ. Nhìn các em, chợt nhớ những kỷ niệm ngày nào khi còn cắp sách đến trường với những mơ ước tươi đẹp tương lai. Giờ chính mình đang đặt những ước mơ đó vào thế hệ con cháu.
Sau mùa thu hoạch, vợ chồng tôi và vợ chồng chú em nhờ Hội giới thiệu đến làm lao công cho một người Mỹ - chưa rõ công việc ra sao, nhưng chúng tôi chấp nhận, vì chưa học được nghề chuyên môn phù hợp với cuộc sống nơi đây. Sáng sớm người Mỹ già lái xe đến đón chúng tôi. Ông lái chiếc xe ọp ẹp cũ kỹ tróc sơn, chở theo hai con chó bự, lông xù, lưỡi thòng lòng thở phì phò. Đang do dự vì không thấy ghế ngồi, ông hiểu ý ra hiệu cho chúng tôi ngồi xuống thùng xe dơ dáy không có gì lót, trừ hai tấm nệm giành cho hai con chó. Ngồi trong thùng xe hôi hám lắc lư, tôi chợt nhớ khi ở Việt nam bạn bè thường cười nói về xã hội Mỹ “nhất con nít, nhì đàn bà, ba chó mèo, bốn đàn ông” giờ mới thấy thật đúng.
Xe chạy hơn một tiếng dừng lại bên khu rừng vắng. Ông chủ chỉ về phía ngôi nhà nằm chênh vênh trên ngọn đồi, ra hiệu đi lên. Ngôi nhà cổ kính, bao phủ lớp sơn vàng úa, chung quanh cây cỏ mọc cao, chứng tỏ đã lâu không người ở. Hắn lấy cuốc cào bảo vợ và cô em dâu dọn sạch cỏ vòng quanh nhà. Hai anh em tôi hắn đưa chiếc lồng sắt chỉ về phía bên kia đồi nói:
- Take two birds!
Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau chưa hiểu ý hắn, nhưng nếu có hỏi lại cũng chưa biết nói sao, hắn không hiểu rắc rối thêm. Cứ cầm chiếc lồng đi lên, tùy cơ ứng biến sau. Nhìn ngọn đồi trải rộng bát ngát phía trước, tôi nói với chú em:
- Thằng cha này chắc điên! Chim trời cá nước làm sao bắt được hai con chim bỏ vào chiếc lồng này"
May mắn lúc đó hắn rảo bước phía sau, tay lúc lắc chùm chìa khoá. Đang đổ đồi chúng tôi nhìn thấy chiếc chuồng lưới sắt rất lớn. Khi mở cửa chuồng hàng trăm con gà kêu lên inh ỏi,vỗ cánh bay tứ tung.
Hắn chỉ vào trong, giơ hai ngón tay chỉ vào chiếc lồng sắt, đẩy chúng tôi vào và đóng sập cửa lại.
- Tổ sư. Bắt gà mà nói là bắt chim, bố ai hiểu được!
Chú em tôi phá lên cười, vì ở VN khi còn đi học có ông thày nào dạy gọi gà bay như chim là “Bỉrd” bao giờ đâu. Sau cả tiếng đồng hồ vật lộn trong khung cảnh rối bù lông lá và tiếng kêu điếc tai, chúng tôi đã hoàn thành công tác ‘đặc biệt ‘ như những tên xiếc nhà nghề.
Cầm chiếc lồng gà trong tay, hắn xem ra đễ chịu hơn đôi chút. Nhưng không che dấu được con người khô khan với áo quần dơ dáy của một tên bụi đời, biết dùng những mánh khoé luồn lọc ngoi lên trong xã hội đa chủng này.
Trở lại ngôi nhà hoang phế, anh em tôi phụ hai bà chặt cây nhỏ mọc quanh, gom lại chất lên xe đem đi đổ. Hắn lái xe tới bìa rừng ra hiệu nhanh tay đẩy xuống rãnh sâu và lái xe đi mất hút. Chúng tôi đang hì hục làm, xe cảnh sát trườn tới cùng tiếng quát bực bội:
- What are you doing"
Nhìn bộ mặt chúng tôi ngơ ngác chắc ông hiểu là người di dân mới đến, nên hạ giọng hỏi:
- Who say…. "
May quá chúng tôi đang ở nhà thuê, biết được chữ chủ nhà,vội trả lời ;
- Landlord! Landlord!
Ông gật đầu lấy ra một tờ giấy ghi chép gì đó, vừa đúng tên Mỹ già quay trở lại. Nhìn thấy xe Cảnh sát hắn định thối lui, nhưng Cảnh sát giơ tay gọi lại. Sau một lúc nói qua lại, Cảnh sát trao cho hắn một tờ giấy – chắc là giấy phạt - và ra lệnh bốc cây lên khỏi rãnh mang đi chỗ khác đổ. Cảnh sát đi rồi, hắn quát tháo om xòm như muốn ăn tươi nuốt sống. Nhưng dễ gì vì ta thường nghe câu ‘Hai đánh một chẳng chột cũng què,” hơn nữa trên tay anh em tôi còn cầm hai con dao rừng. Nhận thấy yếu thế, hắn im lặng phụ bốc cây lên xe đem đi chỗ khác đổ.
Xong công vịệc trời đã về chiều. Ánh hoàng hôn từ từ xuống sau ngọn đồi. Trên đường về, xe chạy dọc ven biển dưới màn đêm trùm phủ. Ngoài xa muôn đốm sáng trên những con tàu yên nghỉ đưa tôi ngược dòng quá khứ về Quê hương: cuộc di tản đường biển kinh hoàng ngoài khơi biển Sa huỳnh, Quân khu I vào những ngày cuối tháng 3/75 khi thành phố Đà nẵng rơi vào tay Cộng Sản BV, Hàng trăm chiếc thuyền to nhỏ bập bềnh trên sóng, bao quanh những sà-lan chất chồng hàng ngàn người di tản. Những mảnh thuyền bẻ vỡ vụn, cuốn theo xác người dập dờn trong bóng tối tử thần ma quái… Tôi thiếp đi một lúc,tới khi tiếng còi xe vào thành phố làm bừng tỉnh. Phố xá muôn màu rực rỡ, những nhà cao tầng lung linh vút trời sao, hai dòng xe cuốn trôi theo dòng ánh sáng. Chúng tôi vội vã băng minh trên vỉa hè đông người qua, tay cầm tấm nhựa và chiếc nón lá, áo quần dơ dáy. .
Nhiều người dừng bước nhìn chúng tôi như thổ dân da đỏ từ núi rừng về thành phố. Mặc kệ những ánh mắt ngạc nhiên! Mặc kệ những ý nghĩ thiếu thiện cảm! Không quan tâm đến cuộc sống văn minh đang vây bủa quanh mình! Chúng tôi mau tìm về tổ ấm nơi con cái đang chờ đợi – nơi gia đình sẽ quây quần dùng bữa cơm chiều đầm ấm sau một ngày làm việc mệt nhọc, kiếm thêm chút tiền bồi đấp cho cuộc sống mới.
Vào cuộc sống mới
Không thể sống bấp bênh qua ngày với những việc không tên tuổi –không được gọi là nghề.
Phải tìm một lối thoát, cần tìm một nghề căn bản cho cuộc sống. Những năm tháng tù đầy khổ cực, những ngày tháng vất vưởng sau khi trở về từ ngục tù Cộng sản, tôi không còn lối thoát đành chấp nhận tất cả. Nhưng giờ đây trên phần đất tự do này tôi có quyền chọn lựa cuộc sống cho mình. Theo lời khuyên người đến trước và nhìn vào hoàn cảnh sống gia đình, tôi không thể cắp sách đến trường, kéo dài một học trình 4 hay 5 năm Đại học và sau khi ra trường đã lớn tuổi lại chưa có kinh nghiệm, khó kiếm việc làm.
Đinh Quân