Cha Tôi Và Mùa Xuân Yêu Dấu
Tác giả: Cát Biển
Bài số 2500-16208577-vb3060109
Tác giả hiện định cư tại Philadelphia. đã nhận giải Đặc Biệt Viết Về Nước Mỹ 2008. Đến Mỹ năm 1975, tốt nghiệp Kỹ Sư Điện và MBA. Đã giử chức vụ Engineering Director tại BEI ở Little Rock, AS. Các công ty phục vụ: Exxon, McDonnell Douglas, Boeing, Physical Optics. Tác phẩm: Trùng Khơi Sóng Vỗ (thi tập, 2002).
***
Hôm nay mùa Xuân lại sắp về trên xứ sở Hoa Kỳ. Đứa con trẻ dại ngày xưa giờ đã qua khỏi tuổi thanh xuân từ lâu, chợt nhớ về Ba xin ghi lại những dòng ký ức nhạt nhòa pha với giọt ướt nơi mắt.
Vào tháng 4 năm 2002, Tôi từ Nam Cali và chị Hoàng Nam từ Minesota cùng hẹn nhau qua Philadelphia thăm Ba. Trí nhớ của Ba như đã cạn hẳn. Người cha yêu dấu với ngón đàn du dương, làn hơi truyền cảm và giọng kể chuyện đầy mê hoặc, người đã mang hình ảnh Tết thiêng liêng về bên bàn thờ tổ tiên mỗi mùa Xuân cho gia đình chúng tôi giờ chỉ còn là một thân xác gầy gò, tóc bạc sương, ngồi xe lăn với cặp mắt nhìn trống rỗng thờ thẩn xa xôi vào hư vô. Ba chỉ cười nhìn các con nhưng nét tinh anh sắc bén của tầm mắt không còn nữa. Ba như ngọn đèn leo lét trước gió. Một năm sau đó Ba vĩnh biệt cuộc đời.
Con người sống nhiều nhất trong nỗi nhớ là khi mất mát, đau thương, gãy đổ. Nỗi nhớ sâu trong tâm thức có thể được dấy lên từ một tình yêu không tron vẹn nào đó, một thời tuổi ngọc qua đi, một mái ấm gia đình bị tan vỡ, hay một quê hương đã mất. Chỉ khi nào chúng ta tìm bắt lại được bóng dáng hạnh phúc khác thay thế vào chổ trống vắng đau thương ấy thì nỗi nhớ mới nguôi ngoai phần nào. Và lúc ấy con người mới có thể về sống lại cùng với hiện tại.
Ba mất đi để lại nhiều kỷ niệm về một thời rất đẹp với quê hương khi gia đình còn có những buổi ăn tràn đầy tình thương yêu lúc các con của Mẹ còn quây quần đông đủ bên quầy canh chua cá nục kho tuyệt vời và thèm khát lắng nghe những chuyện kể đầy thích thú mê hoặc của Ba.
Mùa Xuân đầu tiên trên đất Mỹ năm 1976 sau những biến đỗi to tát đời mình, tôi tìm được chút giây phút tỉnh lặng ngồi nhớ lại không khí Tết ở quê nhà, thấy tết quê mình sao mà thiêng liêng sao mà ấm cúng thiết tha như thế. Thế là thân xác thì sống trong hiện tại mà hồn thì cứ tưởng nhớ những kỷ niệm đẹp xa xưa. Sau khi tốt nghiệp ra trường ngành Kỹ Sư năm 1980 tôi được việc làm với hảng Exxon Production Research ở Houston TX. Những dịp Tết kế tiếp tôi cùng những đồng hương Việt tị nạn tại thành phố Houston tham dự Xuân Hội Ngộ tại Sharpstown. Tiếng trống lân trong xác pháo tại Hoa Kỳ lại làm tôi chạnh nhớ các buổi múa Rồng và Lân rất rình rang rầm rộ tại quê hương Phan Thiết để rồi lại nhớ quê hương cũ da diết.
Nếu nói về những kỷ niệm hội hè ở quê nhà đáng nhớ nhất phải nói là ngày lể Tết được đi xem con Rồng Thanh Long của Phan Thiết múa. Lủ trẻ chúng tôi nô nức đi ra đường xem giửa rừng người, cảnh tượng con Rồng uốn lượn theo trái Châu được vũ lộng xoay vần liên tục bởi một thanh niên lực lưỡng để dẩn Rồng quây quyện, cuộn các con Lân vào giữa, theo tiếng trống "tùm tùm...tùm tùm..." hùng dũng, tiếng chiêng "cheng...cheng..." ngân vang, tiếng tu huýt tíu tít điều khiển, tiếng chân người của đoàn Rồng to lớn, tiếng lục lạc từ thân Rồng lúc lắc theo nhịp chân chạy xào xạc reo vang khắp nơi, cùng xen lẫn các điệu trống Lân "cắc cá lắc cắc cắc... tùng tùng...." khi thì dồn dập, khi thì "xổ..." một tràng dài, khi nhịp đều "cắc tùng tùng... cắc tùng tùng..." lúc các con Lân chồng người lên cao để tung qua mình Rồng thoát khỏi vòng vây...
Vì một dịp tình cờ tôi có đến Chuà Ông để ngắm nghiá một cách say sưa các chi tiết cuả con Rồng Phan Thiết, dầu không bao giờ tôi đủ can đãm đến quá gần vì sợ. Mình Rồng có cài hằng ngàn chiếc "vẩy" óng ánh. Một dịp nọ, có một trẻ lượm được một chiếc vẫy Rồng, tôi và các bạn tò mò đến ngắm nghiá. Mỗi vẩy Rồng là một miếng gương tròn (cở gương thời ấy dành cho các phụ nữ mang theo để soi mặt). Mặt sau của các vẩy gương Rồng ấy có in tên của ân nhân bảo trợ. Đầu Rồng màu trắng, với nét thanh cao, hùng vĩ, có hai chiếc sừng cong cong khúc khỹu. Mủi Rồng nở nang tròn lớn như sẵn sàng để khè ra lửa, mỗi bên mủi có các râu cong cong. Rồng có chiếc lưỡi đỏ thè dài, với hàng râu cằm toả đều xuống mé dưới miệng, vừa xinh đẹp vừa mang vẻ huyền thoại kỳ bí của một linh vật khiến chúng tôi sờ sợ né xa, không bao giờ "đụng" vào ...
Cảnh tượng múa Rồng là cảnh của một linh vật đang đạp mây uốn mình quây lượn theo sự thu hút của trái Châu (tức là một bảo vật). Tục truyền khi nào có các linh vật Long, Lân. Qui, Phụng xuất hiện thì muôn dân sẽ hưỡng được cảnh thanh bình hoan lạc. Trong tâm niệm người dân, cảnh Rồng múa như mang được hình ảnh thiêng liêng cao cả về gần lại để chiếu cố những khó khăn của thực tế cuộc sống. Đầu rồng của rồng Thanh Long Phan Thiết do những người làm muối Phan Thiết làm ra. Con rồng này xuất hiện lần đầu trong Lễ hội Nghinh ông quan thánh năm 1918, dài 49 mét, phần đầu dài 1.7 mét. Thân rồng có 15 khúc, là con rồng lớn nhất Đông Nam Á thời bấy giờ. Mỗi lần múa Rồng phải cần đến hơn 150 người chia thành 3 kíp múa thay nhau. Mỗi khi Rồng muá, tôi vẫn còn nhớ đầu Rồng khá nặng cần phải có 3 thanh niên cùng gồng vác, một người lực lưỡng mang chịu cây trụ chánh ở giửa, hai người kia mang 2 cây xéo chịu 2 bên. Mình Rồng là loại vải rất dầy vừa chắc vừa mềm mại cho dể múa, màu sắc lộng lẫy nhưng không diêm duá. Cách đều nhau giữa các khúc nối mềm mại bằng vải bố là 15 khúc thân cứng cáp cho các thanh niên mang đội vào vai để lượn múa. Mỗi khúc thân Rồng có 1 sườn bằng nan mây, vừa vặn cho 1 người thanh niên nai nịt chịu ở lưng, vai và đai ở hông. Cứ vài phút người này mõi lại có người khác vào thay thế. Lưng Rồng có dẩy Vi lỡm chỡm chạy dài từ đầu cho đến khúc đuôi. Cuối các chân Rồng với những móng vuốt nhọn là hình vẽ những cụm mây. Khúc đuôi cuối cùng của Rồng là những khiá vi nhọn liả chiả, khá cao, lắc lư khi múa, cũng có một cây trụ chính của đuôi do một người nai nịt ở hông và cầm chịu ở tay, và lại thêm 2 dây kéo bởi 2 người khác ở hai bên để múa lượn.
Những ngày tôi còn bé theo xem hội hè đình đám, nghe tiếng trống "tùm tùm...tùm tùm..." của đội Rồng Phan Thiết hoặc tiếng trống dòn dả "Cắc cắc tùng..." của các đội Lân chùa Ông hoặc các đội Lân Mặt Xẹp (với tiếng trống "tùm tùm...tùm tùm tùm...tùng tùng tùng, tùm tùm..." thật đặc biệt và kỳ dị), hay các đội Lân Sài Gòn (có leo cây trụ sắt thật cao và có muá võ) được mời về dự lể Thỉnh Ông, chân tay tôi bổng trở nên bủn rủn, tim hồi hộp, vì bị thu hút mãnh liệt bởi các âm thanh kỳ diệu ấy ... Sau này nghe nói ở thành phố nỗi tiếng nào như New York hoặc Singapore có các con Rồng rất hay và đẹp, tôi đều chú ý xem các hình ảnh để so sánh với con Rồng Phan Thiết. Và vì chưa tìm được các đối tượng đáng kể để mà so sánh nên lòng vẫn cứ còn cưu mang hình ảnh xa xưa...
Khi tôi còn bé, ba tôi hay đi lưu diễn cùng với đoàn văn nghệ cãi lương tỉnh Bình Thuận nên ông được biết đến qua tên hiệu Phan Sinh hơn là tên thật. Vào dạo đoàn về trình diễn tại rạp Moderne, tôi bé tí teo, quá bé để nhớ nhiều; chỉ loáng thoáng trong ký ức cảnh rạp hát mờ mờ ảo ảo, ba đóng vai Hoàng Tử Lưng Gù và một vài cảnh đánh gươm mà tôi rất thích. Đến lúc ba bị gian thần đâm một nhát gươm trên sân khấu, tôi khóc lóc gào rên "Ba ơi, ba..." làm cho ai cũng bật cười. Tiệm may Phan Sinh tại Phan Thiết của ba tôi sát vách với nhà hàng nỗi tiếng Nam Thạnh Lầu, lúc nào cũng nhộn nhịp với hơn 10 thợ may nam nữ. Cảnh bên phố có những buổi chiều với tia nắng vàng nghiêng nghiêng nhẹ nhàng êm dịu như dòng đời, khác hẳn với những thời khẩn trương ngày Tây về ruồng bố bắt người đi lính như dạo anh chị tôi chào đời mấy năm trước đó.
Những năm sau ngày bầu cử Tổng Thống Việt Nam đầu tiên quê tôi thật thanh bình êm ả làm sao bên mái gia đình thân thương. Tôi nhớ vào khoảng năm 1963 tỉnh Bình Thuận tổ chức diễn tuồng "Hoàng Hoa Thám", có ca nhạc và cả nhạc cảnh "Hòn Vọng Phu", để gây quỷ cứu trợ nạn lụt miền Trung. Đây là một tuồng công phu với sự đóng góp của nhiều người con Bình Thuận. Trong kịch bản Hoàng Hoa Thám do ông Trần Thiện Hải cha của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác, cha tôi đóng vai Đề Thám tức Hoàng Hoa Thám, phấn đấu chống Pháp trong hoàn cảnh bi thương nhất. Chú Tư Hí, chủ tiệm hớt tóc trước rạp Moderne, là 1 quái kiệt, chọc cười nghiêng ngã. Ông thủ vai anh lái dê, với mấy câu than thân trách phận về tật "dê" cố hữu khiến ai cũng cười lăn. Chú Mai Hiếu là một tài tử xi-nê bô trai mũi cao, to lớn, đóng vai quan toàn quyền Pháp, kẽ thù dân tộc. Chú Châu (cảnh sát) đóng vai Trần Quang Ngọc ngực mang thẻ bài, là kẽ bồi Tây chỉ điểm cho giặc, cùng với các chú Thạnh, Võ, Tư Kiên, và nhiều diễn viên khác mà đến nay tôi không thể nào nhớ hết. Cảnh bi hùng nhất là cảnh xử trảm anh hùng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí Việt Quốc (VNQDĐ). Để làm chiếc đầu người, tôi còn nhớ ba tôi dùng 1 quả đu đủ xanh cạo khắc mặt mủi giống nét người. Giưã ánh đèn sân khấu mờ ảo, chiếc đầu của anh hùng Nguyễn Thái Học rơi rụng trên đoạn đầu đài, vừa hào hùng vừa bi thãm không khác nào số mệnh đau thương chung của dân tộc Việt...Ngoài ra còn có 1 đội vũ công từ Sài Gòn về tham gia. Thuở đó, bên cạnh trường Tiểu Học Đức Nghiả gần nhà chị Ngô Đình Minh Khanh có 1 bải cát lún mà chúng tôi thường ra thả diều. Bải cát đó là nơi tập dợt của đội vũ, vì màn vũ có những cảnh nhảy cao và nâng người quá đầu, nên có té xuống cát lún thì cũng đở đau...